Vắc xin có tỷ lệ tai biến nặng sau tiêm chủng cao nhất là vắc xin phối hợp DPT-VGB-Hib trong đó lần lượt ComBe Five, SII, Quinvaxem, tỷ lệ tai biến nặng sau tiêm chủng thấp nhất là vắc xin sởi và bại liệt tiêm, không có tai biến nặng sau tiêm chủng vắc xin Viêm gan B.Tai biến sau tiêm vắc xin phối hợp Bạch hầu - Ho gà - uốn ván - VGB - Hib chủ yếu gặp ở nhóm tuổi dưới 6 tháng tuổi, đây cũng là độ tuổi được khuyến nghị thực hiện nhiều mũi tiêm nhất. Thời gian xuất hiện triệu chứng bất thường trong vòng 6 giờ sau tiêm chủng (70,9%). Triệu chứng phổ biến xuất hiện sớm nhất ở các trường hợp tai biến nặng sau tiêm chủng là quấy khóc dai dẳng, tiếp theo là triệu chứng tím tái. Đa số các trường hợp tai biến nặng xảy ra sau tiêm một loại vắc xin. Tai biến nặng sau tiêm chủng có thể xảy ra ở bất kỳ lần tiêm nào trong đó tỷ lệ cao nhất ở liều tiêm đầu tiên, thấp nhất ở liều tiêm thứ ba. Các trường hợp TBN sau tiêm vắc xin trong tiêm chủng mở rộng tại Hà Nội đã được Hội đồng tư vấn chuyên môn kết luận là chủ yếu là liên quan đến vắc xin (88,3%) và không có trường hợp nào do sai sót trong thực hành tiêm chủng hay tâm lý lo sợ.
1. Đặt vấn đề
Hà Nội là nơi lưu hành bệnh sốt xuất huyết trọng điểm của khu vực miền Bắc, trong nhiều năm ghi nhận nhiều đợt dịch lớn, có diễn biến phức tạp. Trước diễn biến phức tạp của dịch SXHD tại Hà Nội cùng với sự xuất hiện của dịch bệnh COVID-19 trong giai đoạn 2020-2022, đã tạo thành một thách thức lớn cho hệ thống y tế dự phòng, ảnh hưởng đến việc triển khai một số hoạt động phòng, chống dịch bệnh SXHD trong đó có giám sát ca bệnh và xử lý ổ dịch. Chính bởi vậy, câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là đặc điểm dịch tễ học SXHD tại Hà Nội giai đoạn 2018 – 2022 như thế nào? Có gì giống và khác với các giai đoạn trước? Đặc biệt là trong giai đoạn từ 2018 – 2022, đại dịch COVID-19 diễn ra có ảnh hưởng như thế nào đến diễn biến dịch COVID-19 không. Liệu rằng đại dịch COVID-19 có ảnh hưởng đến các hoạt động giám sát ca bệnh và xử lý ổ dịch sốt xuất huyết hay không? Chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue trước và trong đại dịch COVID-19 tại Hà Nội giai đoạn 2018-2022”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mô tả đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue tại Hà Nội giai đoạn 2018-2022.
- Mô tả kết quả hoạt động giám sát ca bệnh và xử lý ổ dịch sốt xuất huyết Dengue tại Hà Nội giai đoạn 2018-2022.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang mô tả 46.650 ca bệnh sốt xuất huyết và 4.708 ổ dịch được ghi nhận tại Hà Nội giai đoạn 2018-2022. Dữ liệu thu thập từ hệ thống giám sát bệnh sốt xuất huyết Dengue tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật thành phố Hà Nội.
4. Kết quả chính của đề tài
- Số mắc trung bình hàng năm là 9.330 trường hợp/năm với tỷ lệ mắc trung bình năm là 104 trường hợp/100.000 dân trong giai đoạn 2018-2022. Bệnh nhân phân bố tại 30 quận/huyện/thị xã, xu hướng chuyển dịch từ nội thành ra ngoại thành (năm 2018 nội thành 78,4%, ngoài thành 21,6%; năm 2022 nội thành 47%, ngoại thành 53%). Bệnh xuất hiện quanh năm, xu hướng tăng từ tháng 6 đến tháng 11 hàng năm, đạt đỉnh vào tháng 10, 11. Nhóm trên 15 tuổi chiếm tỷ lệ trên 80% và trên 60% số trường hợp mắc là lao động tự do, học sinh và sinh viên. Có sự lưu hành của cả 4 tuýp vi rút Dengue, trong đó chủ yếu là Dengue 1 (33,8-65,7%) và Dengue 2 (33,3-65,4%).
- Thời gian phát hiện ca bệnh trung bình là 6,2 ± 3,3 (ngày), trong đó giảm từ 6,2 ± 2,2 (ngày) năm 2018 xuống 5,4 ± 2,5 (ngày) năm 2020, sau đó tăng lên 6,7 ± 4,2 (ngày) năm 2022.
- Thời gian phát hiện ổ dịch trung bình là 5,63 ± 2,7 (ngày), trong đó giảm từ 5,32 ± 2,3 (ngày) năm 2018 xuống còn 4,98 ± 2,8 (ngày) trong năm 2021 và có xu hướng tăng lên 6,55 ± 3,3 (ngày) trong năm 2022.
- Tỷ lệ ổ dịch xử lý đạt chiếm 87,3% và chưa đạt chiếm 12,7%, trong đó, tỷ lệ ổ dịch được xử lý chưa đạt giảm từ 11% trong năm 2018 xuống 9,2% năm 2021 và tăng lên 17,9% năm 2022.
Đại dịch COVID-19 xảy ra đầu năm 2020 và kéo dài hơn 2 năm đã gây ra những xáo trộn tại nhiều quốc gia trên toàn cầu, trong đó có hoạt động tiêm chủng cho trẻ nhỏ. Để xác định tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ, đúng lịch và các yếu tố liên quan ảnh hưởng đến hai tỷ lệ này ở trẻ em 1-2 tuổi tại Hà Nội trong thời gian chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 từ tháng 3/2020 đến tháng 2/2022 tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang trên tổng số 656 hồ sơ tiêm chủng của trẻ em từ 12-36 tháng tuổi đang sinh sống trên địa bàn 4 quận huyện (Ba Vì, Hoài Đức, Hoàn Kiếm, Đống Đa) làm mẫu đại diện cho Hà Nội, đồng thời phỏng vấn 656 bà mẹ/người chăm sóc chính của các trẻ này. Chọn mẫu ngẫu nhiên theo cụm, phân tầng không theo tỷ trọng. Kết quả thu được tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ 8 loại vắc xin trẻ 1 tuổi là 92,4%, tiêm chủng đầy đủ nhắc lại trẻ 2 tuổi là 76,6%. Hai mũi vắc xin không đạt mục tiêu chương trình tiêm chủng là Sởi 1 (94,2%) và Sởi 2 (86,9%). Tỷ lệ tiêm đầy đủ các loại vắc xin ở các huyện ngoại thành cao hơn các quận nội thành. Tỷ lệ tiêm đúng lịch 1 tuổi, 2 tuổi lần lượt là 49,1% và 36,5%. Các yếu tố làm giảm khả năng tiêm chủng đầy đủ 1 tuổi của trẻ là: tổng trẻ dưới 5 tuổi trong gia đình nhiều hơn 1; sống ở khu vực nội thành; điểm hài lòng về cuộc sống trong thời kỳ dịch COVID-19 thấp; điểm tác động tiêu cực của dịch COVID-19 với tiêm chủng thấp. Các yếu tố làm giảm khả năng tiêm chủng đầy đủ 2 tuổi là: Nghề mẹ khác nhân viên văn phòng; khu vực nội thành; quan điểm tiêu cực về tiêm chủng trong thời kỳ dịch COVDI-1 nhiều. Không tìm thấy yếu tố ảnh hưởng đến tiêm chủng đúng lịch 1 tuổi. Yếu tố làm giảm khả năng tiêm chủng đúng lịch 2 tuổi của trẻ là: Học vấn mẹ từ Cao đẳng, đại học trở lên, nghề mẹ khác nhân viên văn phòng và sống ở khu vực nội thành.
Đặt vấn đề: Dinh dưỡng là một trong những yếu tố quan trọng trong đời sống hàng ngày của mỗi con người. Mỗi con người là một cá thể do đó nhu cầu về năng lượng và các chất dinh dưỡng của mỗi người là khác nhau, đặc biệt ở phụ nữ mang thai. Tai Việt Nam: năm 2020, tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở nữ giới là 18,5%, đặc biệt cao ở nhóm nữ trong độ tuổi sinh sản (20-30 tuổi) là 22,9-27,7%. Mối liên quan giữa những trẻ là con của bà mẹ có BMI thấp (<18,5 kg/m2) thường có tỷ lệ thấp còi cao hơn (32,6%) so với những trẻ là con của bà mẹ có BMI cao hơn (chiếm 20,6%). Tại Nghệ An: diện tích lớn nhất và dân số đứng thứ 4 cả nước. Nghệ An là trung tâm văn hóa, kinh tế quan trọng của vùng và cả nước. Tuy nhiên các vấn đề về sức khỏe toàn dân nói chung và phụ nữ mang thai nói riêng chưa được quan tâm và nghiên cứu nhiều. Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu 1: Mô tả khẩu phần thực tế của phụ nữ mang thai khám tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Nghệ An năm 2023 - 2024. Mục tiêu 2: Mô tả kiến thức, thực hành dinh dưỡng của phụ nữ mang thai khám tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Nghệ An năm 2023 -2024.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu :Phụ nữ mang thai đến khám thai lần 1 tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Nghệ An (Phòng khám Sức khỏe sinh sản) trong thời gian nghiên cứu.
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang
Cỡ mẫu nghiên cứu:
n=〖Z^2〗_(1-α/2) (p(1-p))/d^2
p: là tỷ lệ phụ nữ hiểu biết đúng về chế độ ăn hợp lý theo nghiên cứu của Nguyễn Hương Giang (p = 0,46)
Áp dụng công thức trên, tính được n = 266
Cỡ mẫu điều tra khẩu phần:
Sử dụng công thức: n=(z^2 x δ^2 x N)/(e^2 xN+ z^2 x δ^2 )
δ: Độ lệch chuẩn của nhiệt lượng trung bình ăn vào (dựa trên cuộc tổng điều tra dinh dưỡng 2019 - 2020 của VDD, lấy là 587 Kcal).
N: Tổng số phụ nữ mang thai tham gia nghiên cứu theo tính toán cỡ mẫu điều tra cắt ngang (266 người).
e: Sai số cho phép (chọn là 100 Kcal).
Thay vào công thức tính được n = 65 phụ nữ mang thai điều tra khẩu phần
MỘT SỐ KẾT QUẢ CỦA NGHIÊN CỨU
Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi và dân tộc (n=266)
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%)
Nhóm tuổi 20-24 14 5,3
25-29 60 22,6
30-34 102 38,3
≥ 35 90 33,8
X ̅ ± SD 32,6 ± 5,1
Dân tộc Kinh 243 91,3
Khác 23 8,7
Kết quả bảng cho thấy độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 32,6 ± 5,1 tuổi, trong đó nhóm tuổi 30-34 chiếm tỷ lệ cao nhất với 38,3%. Đa số đối tượng dân tộc kinh (91,3%)
Giá trị dinh dưỡng của các chất sinh năng lượng trong khẩu phần của đối tượng nghiên cứu theo nơi sinh sống
Chất sinh năng lượng Thành thị
(n=42) Nông thôn
(n=23) Chung
(n=65) p
NLKP (Kcal) 1526,9 ± 270,0 1378,2 ± 317,3 1474,3 ± 294,0 <0,05
Protein (g) 75,5 ± 21,5 76,9 ± 19,2 76,0 ± 20,6 >0,05
Lipid (g) 50,6 ± 19,4 41,7 ± 16,3 47,4 ± 18,7 >0,05
Glucid (g) 191,8 ± 37,2 163,8 ± 37,5 181,9 ± 39,4 <0,05
Nhận xét: Theo bảng giá trị năng lượng khẩu phần của đối tượng nghiên cứu đạt 1474,3 ± 294,0 Kcal; trong đó đối tượng sống tại khu vực thành thị 1526,9 ± 270,0 Kcal cao hơn có ý nghĩa thống kê so với khu vực nông thôn 1378,2 ± 317,3 (p<0,05). Ngoài năng lượng khẩu phần, sự khác biệt về giá trị Glucid khẩu phần của đối tượng sống tại thành thị (191,8 ± 37,2 g) và nông thôn (163,8 ± 37,5 g) cũng có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
Đánh giá kiến thức chung của đối tượng nghiên cứu theo nơi sinh sống
Kiến thức chung Thành thị
(n=204) Nông thôn
(n=62) Chung
(n=266) p
SL % SL % SL %
Đạt 149 73,0 28 45,2 177 66,5 <0,05
Không đạt 55 27,0 34 54,8 89 33,5
Đánh giá thực hành chung của đối tượng nghiên cứu theo nơi sinh sống
Thực hành chung Thành thị
(n=204) Nông thôn
(n=62) Chung
(n=266) p
SL % SL % SL %
Đạt 115 56,4 30 48,4 145 54,5 >0,05
Không đạt 89 43,6 32 51,6 121 45,5
KẾT LUẬN: Khẩu phần thực tế của đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu đánh giá khẩu phần thực tế của 65 phụ nữ mang thai khám tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Nghệ An cho thấy giá trị năng lượng khẩu phần của đối tượng nghiên cứu là 1474,3 ± 294,0 Kcal/ngày; giá trị Protein là 76,0 ± 20,6 g/ngày; Lipid là 47,
Suy dinh dưỡng hoặc sự hiện diện của nhiều thiếu hụt dinh dưỡng trong cơ thể của bệnh nhân cũng có thể là nguyên nhân của rối loạn tuyến giáp trong đó có Basedow. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả tình trạng dinh dưỡng của người bệnh Basedow tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương năm 2022-2023 và Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh Basedow tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương năm 2022-2023. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 104 người được chẩn đoán mắc Basedow từ 5/2023 đến 9/2023 tại khoa Dinh dưỡng lâm sàng và tiết chế, khoa Nội tiết người lớn, khoa Tim mạch và rối loạn chuyển hóa - Bệnh viện Nội tiết Trung ương. Kết quả: Chỉ số BMI trung bình là 20,9 ± 2,8 kg/m2. Tỷ lệ TNLTD là 18,3%, đối tượng thừa cân – béo phì là 10,6%. Tình trạng dinh dưỡng theo phương pháp đánh giá tổng thể chủ quan (SGA): 33,7% người bệnh có nguy cơ SDD vừa hoặc nhẹ, 16,3 % SDD nặng. Kết quả điều tra khẩu phần ăn 24 giờ năng lượng trung bình của mỗi người bệnh là 1803,8 ± 184,4 kcal/ngày. Tình trạng sụt cân: thường gặp ở nhóm tuổi 18 - 39 tuổi, chiếm 46,3% gấp 2,08 lần so với nhóm 40 - 59 tuổi (23,3%). Những người bệnh đã mắc từ trước (47,22%) có tỷ lệ sụt cân cao hơn người mắc lần đầu (28,12%). Kết luận: Tình trạng dinh dưỡng của người bệnh Basedow thể hiện nguy cơ suy dinh dưỡng. Sàng lọc, đánh giá dinh dưỡng, và can thiệp phù hợp cho người bệnh Basedow, đặc biệt là chăm sóc dinh dưỡng để nâng cao chất lượng cuộc sống và ngăn chặn nguy cơ suy dinh dưỡng.
Trần Ngọc Ánh, Trần Thị Diễm Quỳnh, Trần Linh Thảo, Nguyễn Thị Thanh Nga, Bùi Thanh Hải, Phạm Thị Hạ, Phạm Hùng Mạnh, Đoàn Thị Trang, Lê Thị Thảo Linh, Đỗ Thị Thanh Toàn, Đinh Thái Sơn, Phạm Quang Thái, Phan Thanh Hải, Lê Xuân Hưng
Tạp chí Y học cộng đồng
Mục tiêu: Để tìm hiểu thực trạng sử dụng thiết bị giải trí điện tử khi ăn trẻ dưới 6 tuổi tại Việt Nam năm 2021 trong bối cảnh đại dịch COVID-19, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: Thực trạng sử dụng thiết bị giải trí điện tử khi ăn của trẻ dưới 6 tuổi tại Việt Nam năm 2021 và một số yếu tố liên quan. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang trên 306 người chăm sóc chính cho trẻ trong từ tháng 01/06/2021 đến tháng 31/08/2021. Phương pháp chọn mẫu thuận tiện, thu thập bằng bộ câu hỏi trực tuyến qua phần mềm KoboToolbox được chia sẻ trên 1 số hội nhóm Facebook. Kết quả: Có 69,61% trẻ em dưới 6 tuổi sử dụng thiết bị giải trí điện tử trong bữa ăn, hầu hết trẻ sử dụng thiết bị điện tử trong suốt quá trình ăn trong đó trẻ nam chiếm 73,30%, trẻ nữ chiếm 59,30%. Về tần suất sử dụng thiết bị điện tử khi ăn của trẻ, có 49,77% trẻ thường xuyên sử dụng thiết bị điện tử khi ăn; 37,56% trẻ thỉnh thoảng sử dụng; 9,39% trẻ em luôn luôn sử dụng trong các bữa ăn và chỉ có 3,29% trẻ hiếm khi sử dụng thiết bị điện tử khi ăn.Trẻ nam có nguy cơ sử dụng cao gấp 2,36 lần trẻ nữ, kết quả này có ý nghĩa thống kê với OR=2,36 và 95%CI=1,38-4,05. Kết luận: Trong thời gian giãn cách xã hội do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tỷ lệ trẻ sử dụng thiết bị giải trí điện tử khi ăn ở mức cao. Do vậy cha mẹ hoặc người chăm sóc chính cho trẻ cần hạn chế sử dụng màn hình cho con mình trong bữa ăn để ngăn ngừa các vấn đề sức khỏe cho trẻ.
Tạp chí Y học cộng đồng
Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 151 người nội trợ chính có độ tuổi từ 18 - 60 đại diện cho 151 hộ gia đình tại Hà Nội, Vĩnh Phúc, Yên Bái. Trong đó, 75 hộ gia đình có người mắc ung thư và 76 hộ gia đình không có người mắc ung thư. Nghiên cứu nhằm mô tả kiến thức bảo quản thực phẩm trong tủ lạnh, từ đó phân tích một số yếu tố liên quan về kiến thức bảo quản thực phẩm trong tủ lạnh giữa 2 nhóm hộ gia đình trên. Tại hai nhóm nghiên cứu trên đối tượng có ung thư và không mắc ung thư, chúng tôi nhận thấy sự khác biệt về kiến thức giữa hai nhóm khá rõ rệt và có ý nghĩa thống kê (p< 0,05)
Tạp chí Y học cộng đồng
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm kiểm định bộ câu hỏi tìm kiếm và sử dụng thông tin y tế của các bà mẹ có con dưới 1 tuổi, được xây dựng dựa theo 2 bảng câu hỏi của Chen là PSM (bộ câu hỏi tìm kiếm trợ giúp học tập trực tuyến) và OIMH (bộ câu hỏi giải quyết vấn đề trong y học). Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 301 bà mẹ tại 3 trung tâm tiêm chủng tại Hà Nội năm 2020. Kết quả: Kết quả số tin cậy các câu hỏi giao động từ 0,62 đến 0,86, đủ điều kiện giữ lại trong bộ câu hỏi; KMO đạt 0,81 và Barlett’s test có mức ý nghĩa thống kê nhỏ (p
Thực trạng triển khai các văn bản liên quan tới công tác giám sát và xử lý dịch COVID-19 tại thành phố Hà Nội giai đoạn 2020-2021
Mục tiêu: 1.Xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở học sinh trung học phổ thông tại một huyện tỉnh Sơn La, năm 2020. 2.Phân tích một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở học sinh trung học phổ thông tại một huyện tỉnh Sơn La, năm 2020.
Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Học sinh THPT từ khối 10 đến khối 12 (từ 15–17 tuổi); Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang.
Kết quả nghiên cứu:
1. Tỷ lệ SDD thấp còi ở học sinh tại hai trường THPT Cò Nòi và Mai Sơn thuộc huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
- Tỷ lệ SDD thấp còi ở học sinh THPT Cò Nòi và Mai Sơn từ 15-17 tuổi là 11,8%; SDD thấp còi mức độ TB là 11,0%; mức độ nặng là 0,8%.
- Tỷ lệ SDD thấp còi ở học sinh nữ là 14,3% cao hơn học sinh nam là 9,0%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Trong đó học sinh nữ thuộc lớp tuổi 17 có tỷ lệ SDD thấp còi là 18,9%, cao hơn học sinh nữ thuộc lớp tuổi 15 và 16 lần lượt là 9,8% và 14,6% (p<0,05).
- Học sinh người dân tộc H’mông có tỷ lệ SDD thấp còi cao nhất chiếm 37,3%; học sinh người dân tộc Kinh có tỷ lệ SDD thấp còi thấp nhất là 9,8%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
2. Một số yếu tố liên quan tới tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi của học sinh.
- Mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng SDD thấp còi ở học sinh với giới tính của học sinh, tuổi và hoạt động thể lực; và dân tộc của người mẹ.
- Học sinh có mẹ là người dân tộc thiểu số có nguy cơ SDD thấp còi cao gấp 1,69 lần học sinh có mẹ là dân tộc Kinh (p < 0,05).
- Nữ giới có nguy cơ SDD thấp còi cao gấp 1,68 lần nam giới (p < 0,05).
- Học sinh không hoặc ít hoạt động thể lực có nguy cơ SDD thấp còi cao gấp 2,32 lần những học sinh hoạt động thể lực mức TB trở lên (p < 0,01).
* Mục tiêu:
1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ 24-59 tháng tuổi tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang năm 2020.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ 24-59 tháng tuổi tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang năm 2020.
* Đối tượng:
- Trẻ em từ 24-59 tháng tuổi thuộc huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
- Bố mẹ hoặc người chăm sóc chính của trẻ.
* Phương pháp nghiên cứu:
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.3.2. Phương pháp chọn mẫu
2.3.2.1. Cỡ mẫu
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng cho một tỷ lệ:
Trong đó:
- n: số đối tượng cần điều tra.
- p: tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em < 5 tuổi tại tỉnh Tuyên Quang năm 2018 là 25,3%6.
- d: khoảng sai lệch chấp nhận được về tỷ lệ suy dinh dưỡng từ nghiên cứu so với tỷ lệ của cộng đồng. Chọn d = 0,05.
- : ở mức ý nghĩa thống kê 95% = 0,05.
- Z(1-/2¬): giá trị Z thu được từ bảng Z ứng với giá trị = 0,05 là 1,96.
- Thay vào ta được n=291. Tính toán ta được cỡ mẫu tối thiểu là 291 trẻ/cụm x 10 cụm/trường làm tròn 2910 trẻ. Thực tế đã điều tra 2929 trẻ.
2.3.2.2. Cách chọn mẫu
Phương pháp chọn mẫu: Theo nhiều giai đoạn
- Chọn tỉnh, huyện nghiên cứu: Từ tình hình thực tế trong khuôn khổ hoạt động của Chương trình Chiến lược Quốc gia Dinh dưỡng chọn có chủ đích huyện Yên Sơn của tỉnh Tuyên Quang.
- Chọn trường/xã: Chọn chủ đích 10 trường mầm non trong số 28 trường/xã của huyện (trường Tứ Quận, Lang Quán, Tiến Bộ, Thái Bình, Tân Long, Thắng Quân, Hoàng Khai, Mỹ Bằng, Nhữ Hán, Nhữ Khê) bao quanh thành phố Tuyên Quang.
- Chọn đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ trẻ 24 – 59 tháng tuổi đang theo học tại trường.
- Kết quả chính:
1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ 24-59 tháng tuổi tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang năm 2020.
- Các số đo nhân trắc trung bình của trẻ: cân nặng trung bình trẻ trai 24-35 tháng tuổi là 12,3 ± 1,38 kg và trẻ gái là 11,9 ± 1,34 kg; chiều cao trung bình trẻ trai là 88,0 ± 3,67 cm và chiều cao trung bình trẻ gái là 87,3 ± 4,08 cm. Cân nặng trung bình trẻ trai 36-47 tháng tuổi là 14,2 ± 1,71 kg và trẻ gái là 13,5 ± 1,63 kg; chiều cao trung bình trẻ trai là 95,6 ± 4,19 cm và chiều cao trung bình trẻ gái là 93,9 ± 3,77 cm. Cân nặng trung bình trẻ trai 48-59 tháng tuổi là 16,0 ± 2,21 kg và trẻ gái là 15,4 ± 2,17 kg; chiều cao trung bình trẻ trai là 102,6 ± 4,61 cm và chiều cao trung bình trẻ gái là 101,3 ± 4,48 cm. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở chỉ số cân nặng và chiều cao theo từng nhóm tuổi ở trẻ trai và trẻ gái (p<0,001).
- Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân là 6,9% (SDD thể nhẹ cân mức độ vừa 6,6%; SDD thể nhẹ cân mức độ nặng 0,3%); SDD nhẹ cân cao nhất là trẻ có mẹ là người dân tộc Cao Lan (8,8%), Dao (8,2%); trẻ thuộc hộ kinh tế nghèo và cận nghèo 13,4%. Tỷ lệ SDD thấp còi là 14,2% (SDD thể thấp còi mức độ vừa 12,6%, mức độ nặng 1,6%), ở ngưỡng trung bình có YNSKCĐ. Tỷ lệ SDD thấp còi cao nhất là trẻ có mẹ là người dân tộc Dao là 17,5%; trẻ thuộc hộ kinh tế nghèo và cận nghèo 21,9%; đồng thời cao nhất là ở trường Lang Quán (20,8%) tiếp theo là trường Nhữ Hán (18,2%). Tỷ lệ SDD thể gầy còm là 1,8% (SDD thể gầy còm mức độ vừa 1,6%, mức độ nặng 0,2%). Tỷ lệ thừa cân, béo phì là 1,9%.
2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ 24-59 tháng tuổi tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang năm 2020.
- SDD nhẹ cân: Những trẻ thuộc hộ gia đình “nghèo và cận nghèo” có nguy cơ SDD nhẹ cân cao gấp 2,14 lần những trẻ hộ gia đình kinh tế “bình thường” (p<0,001). Những trẻ có mẹ nghề nghiệp “làm ruộng” có nguy cơ SDD nhẹ cân cao gấp 1,67 lần những trẻ có mẹ làm nghề nghiệp khác (p<0,01). Những trẻ có cân nặng sơ sinh <2500g có nguy cơ SDD nhẹ cân cao gấp 2,98 lần những trẻ có cân nặng sơ sinh ≥ 2500g (p<0,001).
- SDD thấp còi: những trẻ thuộc hộ gia đình “nghèo và cận nghèo” có nguy cơ SDD thấp còi cao gấp 1,62 lần những trẻ hộ gia đình kinh tế “bình thường” (p<0,01). Những trẻ có mẹ nghề nghiệp “làm ruộng” có nguy cơ SDD thấp còi cao gấp 1,54 lần những trẻ có mẹ làm nghề nghiệp khác (p<0,001). Những trẻ có cân nặn
Tạp chí Y học dự phòng
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ tháng12/2019 đến tháng 6/2020 tại 7 xã của huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh nhằm mô tả thực trạng tiêm chủng đầy đủ, đúng lịch và một số yếu tố liên quan đến tiêm chủng đầy đủ ở trẻ dưới 1 tuổi. Đối tượng nghiên cứu là 210 trẻ từ 12-23 tháng tuổi cùng với các bà mẹ. Kết quả cho thấy tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ (TCĐĐ) cho trẻ dưới 1 tuổi là 85,7%, tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ và đúng lịch là 4,3%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ TCĐĐ ở trẻ dưới 1 tuổi với số nguồn thông tin bà mẹ nhận được để đưa trẻ đi tiêm chủng trong kết quả hồi quy đa biến. Cần đồng thời sử dụng nhiều hình thức thông tin truyền thông khác nhau về việc đưa trẻ đi tiêm chủng tới các bà mẹ để nâng cao tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ, đúng lịch.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí Y học Việt Nam
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|