Mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ học bệnh viêm não Nhật Bản tại khu vực miền Bắc - Việt Nam giai đoạn 2014 - 2023.
2. Ứng dụng mô hình toán học trong dự báo bệnh viêm não Nhật Bản tại khu vực miền Bắc - Việt Nam cho năm 2024.
Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu là 1.466 người bệnh viêm não Nhật Bản trong các hồ sơ trong cơ sở dữ liệu giám sát bệnh viêm não Nhật Bản của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương (VSDTTƯ) từ năm 2014 – 2023.
Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu được thực hiện tại 28 tỉnh/thành phố khu vực miền Bắc - Việt Nam trong khoảng thời gian từ tháng 5/2023 - 10/2024
- Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả loạt trường hợp bệnh và sử dụng các thống kê mô tả để mô tả các đặc điểm dịch tễ của bệnh và sử dụng mô hình SARIMA để dự báo sự bùng phát của bệnh viêm não Nhật Bản cho năm 2024.
Kết quả chính:
- Viêm não Nhật Bản tại khu vực miền Bắc - Việt Nam đang có xu hướng giảm dần theo thời gian, tỷ lệ mắc đã giảm từ 0,56/100.000 dân vào năm 2014 xuống còn 0,19/100.000 dân vào năm 2023. Bệnh xảy ra ở khắp các tỉnh nhưng tập trung nhiều ở khu vực Tây Bắc (chiếm 42,0% tổng số trường hợp bệnh) và thường tăng mạnh vào các tháng mùa hè, cao nhất vào tháng 6 - 7 hàng năm.
- Trong số các trường hợp bệnh, nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn nữ giới với khoảng 60% ở nam. Bệnh gặp chủ yếu ở trẻ em từ 15 tuổi trở xuống (88,4%) và phần lớn (80,1%) các trường hợp chưa được tiêm chủng hoặc không rõ tiền sử tiêm chủng vắc xin viêm não Nhật Bản.
- Các triệu chứng nặng do viêm não Nhật Bản gây ra như lơ mơ (74,7%), thay đổi tinh thần (71,8%), co giật (62,8%) vẫn còn rất phổ biến.
- Nghiên cứu cũng cho thấy viêm não Nhật Bản có tính mùa khá rõ rệt với chu kỳ 12 tháng.
- Mô hình SARIMA(1,0,0)(1,1,0)12 có độ phù hợp tốt, độ chính xác dự đoán ngắn hạn cao và có thể được áp dụng để dự đoán tỷ lệ mắc viêm não Nhật Bản. Tỷ lệ mắc viêm não Nhật Bản tại khu vực miền Bắc năm 2024 theo mô hình dự báo sẽ giảm nhẹ (tỷ lệ mắc khoảng 0,17/100.000 dân) và đạt đỉnh vào tháng 7.
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu được tiến hành trên 2 nhóm người lao động có tiếp xúc trực tiếp với bụi Silic tại tỉnh Hải Dương và Thái Nguyên giai đoạn từ năm 2019-2020. Nhóm có bệnh gồm 205 đối tượng nghiên cứu được chẩn đoán mắc bệnh bụi phổi Silic và nhóm so sánh với 200 người không bị mắc căn bệnh trên. Kết quả cho thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng hút thuốc và nguy cơ mắc bệnh bụi phổi Silic (OR=1,84; 95%CI:1,24-2,75, p = 0.003). Ngoài ra, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p= 0,026 giữa nồng độ TNF-α trong máu của nhóm có bệnh (21,5 pg/mL) và nhóm so sánh (13,7 pg/mL). Nghiên cứu đã sử dụng đường cong ROC để xác định điểm cắt (0,505 pg/mL) và tính độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm TNF-α trong chẩn đoán căn bệnh này. Tuy nhiên, chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổi, giới tính, tuổi nghề và kiểu gen, alen TNF-α với nguy cơ mắc bệnh bụi phổi Silic.
Tạp chí nghiên cứu Y học
Đại dịch COVID-19 đã gây ra những gánh nặng lên sức khỏe của người dân, hệ thống y tế của chính phủ của các nước trên toàn thế giới. Tính từ năm 2020 đến nay, Việt Nam đã có 4 đợt bùng phát dịch COVID-19. Nghiên cứu này được thực hiện theo phương pháp mô tả cắt ngang hồi cứu với toàn bộ ca bệnh nhiễm COVID-19 tại Bắc Ninh trong đợt dịch 4 năm 2021 (5/5/2021 - 27/12/2021). Trong số 10.717 ca bệnh có độ tuổi trung bình là 28,95 tuổi, trong đó nhóm tuổi chủ yếu là từ 15 đến 39 tuổi chiếm 70,44%, bệnh nghề nghiệp có nguy cơ nhiễm bệnh nhiều nhất là công nhân chiếm 60,94% và mối quan hệ tiếp xúc là từ đồng nghiệp cùng cơ quan, công ty chiếm tỷ lệ cao nhất tới 61,88%, KCN Quế Võ 1 có số ca bệnh cao nhất cả tỉnh chiếm 68,15%. Kết quả từ tổng số ca bệnh cho thấy số ca khỏi bệnh cao đến 99,84% và số ca bệnh tử vong chiếm 0,16%. Việc phối hợp áp dụng các biện pháp kịp thời và hợp lý như đẩy mạnh xét nghiệm và tiêm chủng vắc-xin phòng COVID-19 đã giúp tỉnh Bắc Ninh kiểm soát số ca bệnh, dự phòng hiệu quả. Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp bằng chứng quan trọng về đặc điểm dịch tễ học dịch COVID-19 lần thứ 4 đó là ghi nhận chủ yếu ở các khu công nghiệp và từ đó lây ra cộng đồng. Kết quả nghiên cứu giúp đề xuất một số biện pháp đáp ứng dịch phù hợp trong việc kiểm soát, phòng, chống dịch trong tương lai.
Tạp chí Y học dự phòng
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Viết Nhung, Lê Thị Hương, Lê Thị Thanh Xuân, Khương Văn Duy, Trần Như Nguyên, Nguyễn Ngọc Hồng, Cung Văn Công, Nguyễn Thanh Hà, Võ Trọng Thành, Phạm Thị Quân, Nguyễn Thanh Thảo, Tạ Thị Kim Nhung, Nguyễn Thị Quỳnh, Dương Văn Quân, Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Quốc Doanh
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|