Nghiên cứu cắt ngang nhằm 2 mục tiêu: 1. Mô tả thực trạng tiếp xúc nghề nghiệp của nhân viên y tế tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương năm 2023; 2. Phân tích tình trạng sức khỏe, bệnh tật của nhân viên y tế và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương năm 2023. Tổng có 293 nhân viên y tế bộ tại bệnh viện Nhiệt đới Trung ương tham gia nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỉ lệ nhân viên y tế ở khoa lâm sàng thường xuyên tiếp xúc với máu và chất tiết của người bệnh cũng như có nguy cơ tổn thương do vật sắc nhọn cao hơn so với ở khoa cận lâm sàng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Ngoài ra, 15,0% nhân viên đã được chẩn đoán theo dõi bệnh nghề nghiệp. Điều này cho thấy cần phải cải thiện điều kiện lao động và luôn trang bị đầy đủ các phương tiện bảo vệ cá nhân cũng như đào tạo, kiểm tra, đánh giá cách sử dụng chúng, đặc biệt là tại các khu vực nguy cơ lây nhiễm bệnh cao.
1. Mục tiêu nghiên cứu: 1- Mô tả thực trạng môi trường lao động và ô nhiễm tiếng ồn ở một Công ty sản xuất linh kiện điện tử tại tỉnh Hà Nam, năm 2023. 2- Xác định thực trạng sức khỏe và giảm thính lực do tiếng ồn ở người lao động Công ty sản xuất linh kiện điện tử tại tỉnh Hà Nam năm 2023
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 1: Đo đạc, khảo sát các yếu tố môi trường lao động
Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 2: Người lao động lao động trực tiếp trong các line sản xuất của công ty.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện theo thiết kế mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: Mẫu phỏng vấn, khám sức khỏe, đo thính lực: Chọn mẫu toàn bộ người lao động trực tiếp tham gia sản xuất (n=195). Mẫu tiếng ồn: Chọn đại diện cho 8 line sản xuất và khu vực hành chính bao gồm 34 mẫu ồn chung, 9 mẫu ồn phân tích giải tần.
4. Kết quả:
Có 26,5% số mẫu đo tiếng ồn không đạt TCCP
Phân tích giải tần các mẫu đo tiếng ồn vượt TCCP, các giải tần vượt giới hạn cho phép là giải tần tần số cao (tần số công nghiệp) tần số 2000 Hz: 02 mẫu vượt TCCP; tần số 4000Hz: 05 mẫu vượt TCCP); tần số 8000 Hz 05 mẫu vượt TCCP.
79% người lao động làm việc trong môi trường có tiếng ồn cao; 52,8% người lao động làm việc trong môi trường tiếng ồn ngắt quãng.
Có 23,1% (45/195) người lao động làm việc trong môi trường ồn giảm thính lực, trong đó tỷ lệ giảm thính lực 2 tai là 19,5%.
Tỷ lệ giảm thính lực cao nhất ở NLĐ có độ tuổi 30-39 (41,1%)
Tỷ lệ giảm thính lực tăng theo thâm niên nghề nghiệp. NLĐ có tuổi nghề >= 5 năm có tỷ lệ giảm thính lực cao nhất (33.0%).
NLĐ làm việc trong điều kiện môi trường tiếng ồn cao/ngắt quãng có nguy cơ giảm thính lực cao hơn NLĐ làm việc trong ĐK tiếng ồn không cao/ không ngắt quãng.
NLĐ có tần suất sử dụng nút tai không thường xuyên/hiếm khi có nguy cơ giảm thính lực cao hơn so với NLĐ sử dụng nút tai thường xuyên và rất thường xuyên.
Toàn bộ người lao động bị giảm thính lực đều ở mức độ nhẹ (ngưỡng nghe 21-40dB); không có người lao động giảm thính lực mức độ vừa và nặng.
Mục tiêu: Mô tả thực trạng môi trường lao động và sức khỏe tâm thần của người lao động khai thác than hầm lò tại Công ty Than Mạo Khê và Công ty cổ phần Than Vàng Danh năm 2022 – 2023. Phân tích một số yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần của người lao động khai thác than hầm lò tại Công ty Than Mạo Khê và Công ty cổ phần Than Vàng Danh năm 2022 – 2023.
Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 180 người lao động khai thác than hầm lò thuộc 02 công ty khai thác than ở Quảng Ninh. Công cụ nghiên cứu là test lo âu Zung và test trầm cảm Beck được sử dụng và đánh giá.
Kết quả: Tỷ lệ số mẫu không đạt TCCP ở các yếu tố: vi khí hậu, tiếng ồn, độ rung, nồng đội bụi than ở mức cao. Giá trị trung bình các yếu tố này vượt TCCP, đặc biệt bụi than vượt TCCP hàng chục lần. Có 15% đối tượng nghiên cứu có các vấn đề về sức khỏe tâm thần, trong đó có 7 người (3,9%) có rối loạn lo âu và 10 người (5,56%) có trầm cảm, 10 người (5,56%) có cả 2 vấn đề về sức khỏe tâm thần là lo âu và trầm cảm. 8,88% (16 người) có rối loạn lo âu mức độ nhẹ; có 1 người rối loạn lo âu mức độ nặng. Trong số các đối tượng có trầm cảm có 15 người (8,33%) trầm cảm mức độ nhẹ; 2 đối tượng trầm cảm mức độ vừa và 3 đối tượng có trầm cảm mức độ nặng qua khảo sát bằng test Beck. Kết quả phân tích cho thấy một số yếu tố có liên quan đến sức khỏe tâm thần ở người lao động: tuổi nghề, không hài lòng về thu nhập, không hài lòng về công việc, sử dụng rượu bia, cảm nhận MTLĐ rất nhiều bụi, thừa ánh sáng, thiếu ánh sáng, cảm nhận chung MTLĐ xấu.
Kết luận: Cần có những nghiên cứu lớn về thực trạng sức khỏe tâm thần người lao động khai thác than hầm lò để xác định đối tượng nguy cơ, yếu tố liên quan để có biện pháp can thiệp sớm hiệu quả.
Mục tiêu: nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng điều kiện môi trường lao động, sức khỏe, bệnh tật của người lao động tại một công ty may ở Thanh Hóa năm 2022. Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên hai nhóm mẫu là điều kiện môi trường lao động và 460 người lao động làm việc trong một công ty may tại Thanh Hóa năm 2022 để đánh giá điều kiện môi trường lao động tại và tình trạng sức khỏe bệnh tật của công nhân tại cơ sở này. Kết quả: Hầu hết các vị trí làm việc tại công ty đều có các yếu tố trong môi trường lao động như vi khí hậu, ánh sáng, tiếng ồn, nồng độ bụi nằm trong giới hạn cho phép, chỉ có 28,6% vị trí làm việc tại khu vực may có tiếng ồn vượt giới hạn cho phép. Đối tượng nghiên cứu có tỷ lệ mắc các bệnh về mắt là nhiều nhất, tiếp đến các bệnh về tai mũi họng, răng hàm mặt, sản phụ khoa, tim mạch, tiêu hóa,… Nhóm bệnh về tiết niệu, cơ xương khớp chiếm tỷ lệ thấp. Triệu chứng hay gặp nhất sau giờ làm của NLĐ là đau đầu (58,5%), sau đó là triệu chứng đau vùng dạ dày, mệt mỏi. Người lao động có sức khỏe loại I và II chiếm 88,1%, loại III và IV chiếm 11,9 %.
Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Nguyễn Ngọc Anh, Phạm Thị Quân, Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Quốc Doanh, Tạ Thị Kim Nhung, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Thị Liên Hương, Nguyễn Thị Quỳnh
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện nhằm mô tả tính sẵn sàng ứng phó với COVID-19 của nhân viên y tế Việt Nam năm 2021. Nghiên cứu được thực hiện trên 1603 đối tượng tại một số cơ sở y tế tại Việt Nam từ tháng 5/2021 đến tháng 5/2022. Kết quả cho thấy hầu hết đối tượng nghiên cứu tự tin và sẵn sàng tham gia phòng chống COVID-19 (lần lượt là 97,9% và 93,4%). Đa số nhân viên y tế mong muốn được hỗ trợ về trang thiết bị bảo hộ cá nhân (82,2%), tài chính (70,4%) và đào tạo chuyên môn (64,1%). Trực phòng chống COVID-19, được đào tạo về chăm sóc, điều trị và dự phòng COVID-19 là những yếu tố liên quan đến tính sẵn sàng ứng phó của nhân viên y tế với COVID-19.
Tạp chí Y học Việt Nam
ức khỏe tâm thần của Điều dưỡng Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng bộ đánh giá IES-Rvà DASS 21 trên 280 điều dưỡng đang làm việc tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 8/2021 đến tháng 4/2022. Kết quả: Có 28,9% điều dưỡng có dấu hiệu của rối loạn tâm lý sau sang chấn. Mức độ nhẹ với 9,8%, mức độ vừa là 9,3%. 12,9% có rối loạn mức độ nặng. Điểm trung bình trong nhóm đối tượng là 22,4 ± 9,7 (Min: 11, Max: 44). Tỷ lệ có stress là 26,1%, lo âu là 35,4% và trầm cảm là 31,8%. Kết luận: Cần thực hiện tư vấn và can thiệp tâm lý kịp thời cho điều dưỡng để giảm bớt lo lắng và cải thiện sức khỏe tâm thần nói chung của họ
Tạp chí Y học Việt Nam
Một nghiên cứu cắt ngang nhằm đánh giá tác động của đại dịch Covid 19 đối với sức khỏe tâm thần của nhân viên y tế vào năm 2021. Nghiên cứu nhằm phân tích các yếu tố liên quan đến tác động của Covid-19 đối với sức khỏe tâm thần của nhân viên y tế. Phỏng vấn trực tiếp được thực hiện để thu thập dữ liệu từ 470 đối tượng là nhân viên y tế tại các bệnh viện khác nhau trên địa bàn Hà Nội. Tác động của Thang đo sự kiện - Đã sửa đổi được sử dụng để phân tích tác động của đại dịch COVID 19 đến sức khỏe tâm thần của nhân viên y tế trong thời gian nghiên cứu. Kết quả của cuộc nghiên cứu cho thấy 9,8% đối tượng đang có
vấn đề về tâm thần cần được quan tâm, trong khi
23,2% nhân viên y tế đang bị tâm thần lâu dài và
1,5% tổng số bệnh nhân được chẩn đoán là bị căng
thẳng. Điểm trung bình của “Phản ứng thái quá” đối
với Covid-19 là cao nhất (12,5 ± 9,1), tiếp theo là
“Lảng tránh” (5,0 ± 4,8) và “Chênh vênh” (4,1 ± 4 ,
1). Nhân viên y tế là nữ tiếp xúc trực tiếp với bệnh
nhân, nữ nhân viên y tế có trình độ học vấn thấp, tiếp
xúc trực tiếp với bệnh nhân và các nhân viên khác và
làm việc nhiều giờ, có nguy cơ bị các vấn đề tâm thần
cao hơn những người khác. Tiêm phòng sẽ giúp giảm
nguy cơ mắc các vấn đề tâm thần đó
Nguyễn Quốc Doanh, Dương Thị Thu Trà, Nguyễn Hương Giang, Vũ Kim Duy, Nguyễn Thanh Thảo, Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Ngọc Anh, Phạm Thị Quân, Tạ Thị Kim Nhung, Nguyễn Thị Quỳnh, Nguyễn Thị Liên Hương
Tạp chí Y học Việt Nam
Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của đại dịch COVID-19 đối với sức khỏe tâm thần của nhân viên y tế dự phòng. Nghiên cứu cắt ngang sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn trực tiếp và thang đo tác động quy mô sự kiện(IES-R) trên 455 nhân viên y tế từ các trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) ở 4 tỉnh trong đại dịch COVID-19 vào năm 2021. Kết quả nghiên cứu cho thấy 45,93% đối tượng có vấn đề sức khỏe tâm thần cần được quan tâm, 8,8% có ảnh hưởng sức khỏe tâm thần lâu dài trong nhiều năm, và 2,8% được chẩn đoán mắc trạng thái căng thẳng. Điểm trung bình của “Ám ảnh” về COVID 19 là cao nhất (11,34 ± 6,67), tiếp theo là “Tránh” (7,35 ± 5,79) và “Phản ứng thái quá” (6,86 ± 5,20). Cán bộ, nhân viên y tế làm việc tại khoa phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm thường tránh mắc bệnh hơn các nhân viên làm công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm. Nhân viên nữ có nguy cơ bị ám ảnh, né tránh và mắc bệnh thái quá cao hơn nam giới.
Nguyễn Thị Quỳnh, Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Nguyễn Ngọc Anh, Phạm Thị Quân, Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Quốc Doanh, Tạ Thị Kim Nhung, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Thị Liên Hương
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện nhằm mô tả tác động của đại dịch COVID-19 đến sức khỏe tâm thần của cán bộ y tế một số tỉnh thành Việt Nam năm 2021. Số liệu được thu thập bằng phỏng vấn theo bộ câu hỏi trên 1603 cán bộ y tế tại Hà Nội, Thái Bình, Đà Nẵng và Quảng Nam. Kết quả cho thấy hầu hết đối tượng nghiên cứu phơi nhiễm với COVID-19 hàng ngày (83,5%) và đã được đào tạo về COVID-19 trong năm 2021 (95,8%). 27,3% đối tượng nghiên cứu có rối loạn về sức khỏe tâm thần, trong đó cao nhất là Đà Nẵng (34,9%), tiếp đến là Hà Nội (28,9%), Quảng Nam (22,6%) và Thái Bình (22,2%). Giới nữ, độ tuổi từ 40 đến 49 và phơi nhiễm với COVID-19 hàng ngày là những yếu tố làm tăng tỷ lệ rối loạn sức khỏe tâm thần ở nhân viên y tế
Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Nguyễn Ngọc Anh, Phạm Thị Quân, Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Quốc Doanh, Tạ Thị Kim Nhung, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Thị Liên Hương, Nguyễn Thị Quỳnh
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện nhằm phân tích một số yếu tố liên quan đến rối loạn sức khỏe tâm thần do đại dịch COVID-19 của cán bộ y tế năm 2021. Nghiên cứu được tiến hành trên 1603 nhân viên y tế tại Hà Nội, Thái Bình, Đà Nẵng và Quảng Nam. Phân tích nhân tố được áp dụng để xác định 3 lĩnh vực: sự ám ảnh, lảng tránh và phản ứng thái quá. Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng điểm về sức khỏe tâm thần là 23,1 ± 16,05. Điểm trung bình của sự ám ảnh, sự lảng tránh và phản ứng thái quá lần lượt là 10,2 ± 6,39; 7,03 ± 5,88 và 5,9 ± 4,97. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tổng điểm và điểm về sự lảng tránh giữa các tỉnh nghiên cứu trong đó cao nhất ở Hà Nội, rồi đến Đà Nẵng, Quảng Nam và thấp nhất ở Thái Bình (p < 0,05). Một số yếu tố như giới tính, tuổi đời, có sống một mình không và nguy cơ phơi nhiễm với COVID-19 có liên quan đến sức khỏe tâm thần của nhân viên y tế trong đại dịch COVID-19
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu được tiến hành trên 2 nhóm người lao động có tiếp xúc trực tiếp với bụi Silic tại tỉnh Hải Dương và Thái Nguyên giai đoạn từ năm 2019-2020. Nhóm có bệnh gồm 205 đối tượng nghiên cứu được chẩn đoán mắc bệnh bụi phổi Silic và nhóm so sánh với 200 người không bị mắc căn bệnh trên. Kết quả cho thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng hút thuốc và nguy cơ mắc bệnh bụi phổi Silic (OR=1,84; 95%CI:1,24-2,75, p = 0.003). Ngoài ra, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p= 0,026 giữa nồng độ TNF-α trong máu của nhóm có bệnh (21,5 pg/mL) và nhóm so sánh (13,7 pg/mL). Nghiên cứu đã sử dụng đường cong ROC để xác định điểm cắt (0,505 pg/mL) và tính độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm TNF-α trong chẩn đoán căn bệnh này. Tuy nhiên, chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổi, giới tính, tuổi nghề và kiểu gen, alen TNF-α với nguy cơ mắc bệnh bụi phổi Silic.
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nhân viên y tế có kiến thức và thực hành tốt về phòng, chống dịch COVID-19 sẽ góp phần quan trọng vào việc khống chế dịch COVID-19 lây lan. Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá tỉ lệ nhân viên y tế tại Việt Nam có kiến thức và thực hành đúng về phòng, chống dịch COVID-19 và một số yếu tố liên quan, năm 2020. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến hành trên 21.413 nhân viên y tế trực tiếp tham gia phòng, chống dịch COVID-19 tại các cơ sở y tế trên cả nước theo phương pháp ném bóng tuyết. Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ nhân viên y tế có kiến thức và thực hành đúng phòng, chống dịch COVID-19 lần lượt là 84,4% và 71,4%. Nhân viên y tế nữ, trẻ tuổi, có thâm niên công tác ≥ 10 năm và có nguy cơ tiếp xúc với COVID-19 thì có kiến thức về phòng, chống COVID-19 tốt hơn. Nhân viên y tế có thâm niên công tác ≥ 10 năm và có nguy cơ tiếp xúc với COVID-19 thì có thực hành về phòng, chống COVID-19 tốt hơn (p < 0,05)
Mục tiêu: Mô tả tác động của dịch COVID 19 tới sức khỏe tâm thần của Điều dưỡng Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng bộ đánh giá IES-Rvà DASS 21 trên 280 điều dưỡng đang làm việc tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 8/2021 đến tháng 6/2022. Kết quả: Có 28,9% điều dưỡng có dấu hiệu của rối loạn tâm lý sau sang chấn. Mức độ nhẹ với 9,8%, mức độ vừa là 9,3%. 12,9% có rối loạn mức độ nặng.. Điểm trung bình trong nhóm đối tượng là 22,4 ± 9,7 (Min: 11, Max: 44). Tỷ lệ có stress là 26,1%, lo âu là 35,4% và trầm cảm là 31,8%. Kết luận: Cần thực hiện tư vấn và can thiệp tâm lý kịp thời cho điều dưỡng để giảm bớt lo lắng và cải thiện sức khỏe tâm thần nói chung của họ.
Từ khóa:sức khỏe tâm thần, điều dưỡng, COVID 19.
Mục tiêu: 1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người lao động nhập cư tại một cơ sở sản xuất ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 2021.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan tới tình trạng dinh dưỡng của người lao động nhập cư tại một cơ sở sản xuất ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 2021.
Mục tiêu: 1. Xác định nhu cầu dinh dưỡng của người lao động ngành dệt may và da giầy khu vực miền Nam năm 2017. 2. Mô tả thực trạng bữa ăn ca của công nhân ngành dệt may và da giầy khu vực miền Nam năm 2017. Đối tượng: Người lao động của 16 cơ sở lao động thuộc 2 ngành dệt may và da giầy tại khu vực phía Nam. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Kết quả: 1. Nhu cầu dinh dưỡng thực tế của người lao động ngành dệt may và da giầy khu vực miền Nam năm 2017.
- Nhu cầu năng lượng trong bữa ăn ca của NLĐ nam ở độ tuổi từ 19-30 tuổi là 974,6±57,4kcal, 31-60 tuổi là 952,03± 86,7kcal. Của NLĐ nữ ở độ tuổi từ 19 – 30 tuổi là 767,6±64,5kcal, 31 – 60 tuổi là 766,1±56,7kcal. Nhu cầu Glucid, Protein, lipid trong bữa ăn ca của NLĐ nam ở độ tuổi từ 19-30 tuổi lần lượt là 167,31±9,8g, 27,6±1,6g , 21,7±1,3g; 31 – 60 tuổi lần lượt là 163,43±14,8g, 26,9±2,4g, 21,2±1,9g. Nhu cầu Glucid, Protein, lipid trong bữa ăn ca của NLĐ nữ ở độ tuổi từ 19-30 tuổi lần lượt là 129,4±10,9g, 24,1±2,01g, 17,1±1,4g, 31 – 60 tuổi lần lượt là 129,1±9,6g, 24,1±1,8g, 17,02±1,3g.
- Nhu cầu vitamin B1, B2, PP trong bữa ăn ca của NLĐ nam ở độ tuổi từ 19-30 tuổi lần lượt là 0,39±0,02mg, 0,54±0,03mg, 6,4±0,4mg, 31-60 tuổi lần lượt là 0,38±0,03mg, 0,52±0,05mg, 6,3±0,6mg. Của NLĐ nữ ở độ tuổi từ 19 – 30 tuổi lần lượt là 0,31±0,03mg, 0,42±0,03mg, 5,07±0,4mg; 31 – 60 tuổi lần lượt là 0,30±0,22mg, 0,43±0,30mg, 5,05±0,4mg.
- Nhu cầu Canxi trong bữa ăn ca của NLĐ ở độ tuổi từ 19-30 tuổi là 400mg, 31 – 60 tuổi là 320mg. Nhu cầu Phospho trong bữa ăn ca của NLĐ nam ở cả 2 nhóm tuổi là 400mg, của NLĐ nữ độ ở 2 nhóm tuổi là 360mg.
- Nhu cầu Sắt trong bữa ăn ca của NLĐ nam ở độ tuổi từ 19-30 tuổi là 7g; 31 – 60 tuổi là 4,6g; của NLĐ nữ độ tuổi từ 19-30 tuổi là 11,88g; 31 – 60 tuổi là 10,44g. Nhu cầu Kẽm trong bữa ăn ca của NLĐ nam ở cả 2 nhóm tuổi là 4mg; của NLĐ nữ ở 2 nhóm tuổi là 3,2g.
- Nhu cầu chất xơ trong bữa ăn ca của NLĐ nam ở độ tuổi từ 19-30 tuổi là 13,6±0,8 g, 31 – 60 tuổi là 13,3±1,2g, của NLĐ nữ độ tuổi từ 19-30 tuổi là 10,7±0,9g; 31 – 60 tuổi là 10,7±0,8g.
2. Thực trạng bữa ăn ca thực tế của người lao động ngành dệt may và da giầy khu vực miền Nam năm 2017.
Thực phẩm được tiêu thụ trung bình cao nhất là nhóm ngũ cốc (131.52±55.16g), kế đến là nhóm rau quả khác (78.18±58.48g), thịt, cá và thủy sản (66.35±36.67), rau màu xanh thẫm, rau quả màu vàng đỏ(40.43±46.18g). Nhóm đậu và các sản phẩm; bánh kẹo, nước ngọt; trứng và đồ uống có cồn có mức tiêu thụ rất ít tương ứng 8.58±38.86g; 3.16±2.78g; 0.95±7.38g. Không tiêu thụ sữa và đồ có cồn trong bữa ăn ca.
Năng lượng trung bình trong khẩu phần thực tế của NLĐ nam là 758,3± 205,9kcal với trung bình lượng Protein, Lipid, Glucid tiêu thụ trong khẩu phần tương ứng là 29,1±8,6g; 16,6±8,4g; 123,9±40,9g. Của NLĐ nữ là 625,4±205,9kcal với trung bình lượng Protein, Lipid, Glucid tiêu thụ trong khẩu phần tương ứng là 24,2 ±8,4g; 14,4±7,9g; 99,9±39,5g.
Bữa ăn ca NLĐ 2 ngành dệt may và da giầy tương đối cân đối về tỷ lệ các chất sinh năng lượng, tỷ số protein động vật/protein tổng số và tỷ số lipid động vật/ lipid tổng số. Tuy nhiên các tỷ số canxi/ phospho, chất xơ/ 1000kcal, Vitamin B2/1000kcal chưa cân đối, cụ thể là:
- Tỷ lệ Protein: Lipid: Glucid là 15,8:20,6:63,9.
- Tỷ số protein động vật/ tổng số trong khẩu phần là 0.48. Tỷ số Lipid động vật/tổng số trong khẩu phần là 0.47. Tỷ số Canxi/Phospho là 0.47 Hàm lượng vitamin B1/1000kcal, vitamin B2/1000kcal, vitamin PP/1000 Kcal tương ứng là 0,59mg; 0,34mg và 7,5mg. Hàm lượng chất xơ/1000kcal là 3,33±1,82g.
Bữa ăn ca chưa đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng thực tế của NLĐ cụ thể: Mức đáp ứng về năng lượng là 63,6±17,4% ở NLĐ nam và 75,9±
Tạp chí Y học Quân sự
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí Dược học
Tạp chí Y học Quân sự
|