Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Nguyễn Ngọc Anh, Phạm Thị Quân, Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Quốc Doanh, Tạ Thị Kim Nhung, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Thị Liên Hương, Nguyễn Thị Quỳnh
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện nhằm mô tả tính sẵn sàng ứng phó với COVID-19 của nhân viên y tế Việt Nam năm 2021. Nghiên cứu được thực hiện trên 1603 đối tượng tại một số cơ sở y tế tại Việt Nam từ tháng 5/2021 đến tháng 5/2022. Kết quả cho thấy hầu hết đối tượng nghiên cứu tự tin và sẵn sàng tham gia phòng chống COVID-19 (lần lượt là 97,9% và 93,4%). Đa số nhân viên y tế mong muốn được hỗ trợ về trang thiết bị bảo hộ cá nhân (82,2%), tài chính (70,4%) và đào tạo chuyên môn (64,1%). Trực phòng chống COVID-19, được đào tạo về chăm sóc, điều trị và dự phòng COVID-19 là những yếu tố liên quan đến tính sẵn sàng ứng phó của nhân viên y tế với COVID-19.
Nguyễn Ngọc Anh, Định Thị Lam, Trần Thị Phương Thảo, Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Phạm Thị Quân, Tạ Thị Kim Nhung, Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Quốc Doanh, Nguyễn Thị Loan, Nguyễn Thị Quỳnh
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả thực trạng công việc và khả năng sẵn sàng ứng phó với dịch COVID-19 của nhân viên y tế. Nghiên cứu được tiến hành trên 225 nhân viên y tế làm việc tại Bệnh viện Đống Đa, Hà Nội có tuổi nghề tối thiểu 2 năm, thời gian nghiên cứ từ tháng 5/2021 đến tháng 5/2022. Kết quả cho thấy phần lớn đối tượng phải làm thêm giờ (56%), tăng khối lượng công việc (55,1%), căng thẳng khi làm việc (56,4%), hầu hết đối tượng tham gia nghiên cứu sẵn sàng và tự tin tham gia chăm sóc và điều trị bệnh nhân COVID-19 (lần lượt là: 92,0% và 93,3%) và đa số mong muốn được hỗ trợ trang thiết bị bảo hộ cá nhân (85,3%), tài chính (84,0%) và chuyên môn (76,4%).
Nguyễn Thị Quỳnh, Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Nguyễn Ngọc Anh, Phạm Thị Quân, Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Quốc Doanh, Tạ Thị Kim Nhung, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Thị Liên Hương
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện nhằm mô tả tác động của đại dịch COVID-19 đến sức khỏe tâm thần của cán bộ y tế một số tỉnh thành Việt Nam năm 2021. Số liệu được thu thập bằng phỏng vấn theo bộ câu hỏi trên 1603 cán bộ y tế tại Hà Nội, Thái Bình, Đà Nẵng và Quảng Nam. Kết quả cho thấy hầu hết đối tượng nghiên cứu phơi nhiễm với COVID-19 hàng ngày (83,5%) và đã được đào tạo về COVID-19 trong năm 2021 (95,8%). 27,3% đối tượng nghiên cứu có rối loạn về sức khỏe tâm thần, trong đó cao nhất là Đà Nẵng (34,9%), tiếp đến là Hà Nội (28,9%), Quảng Nam (22,6%) và Thái Bình (22,2%). Giới nữ, độ tuổi từ 40 đến 49 và phơi nhiễm với COVID-19 hàng ngày là những yếu tố làm tăng tỷ lệ rối loạn sức khỏe tâm thần ở nhân viên y tế
Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Nguyễn Ngọc Anh, Phạm Thị Quân, Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Quốc Doanh, Tạ Thị Kim Nhung, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Thị Liên Hương, Nguyễn Thị Quỳnh
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện nhằm phân tích một số yếu tố liên quan đến rối loạn sức khỏe tâm thần do đại dịch COVID-19 của cán bộ y tế năm 2021. Nghiên cứu được tiến hành trên 1603 nhân viên y tế tại Hà Nội, Thái Bình, Đà Nẵng và Quảng Nam. Phân tích nhân tố được áp dụng để xác định 3 lĩnh vực: sự ám ảnh, lảng tránh và phản ứng thái quá. Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng điểm về sức khỏe tâm thần là 23,1 ± 16,05. Điểm trung bình của sự ám ảnh, sự lảng tránh và phản ứng thái quá lần lượt là 10,2 ± 6,39; 7,03 ± 5,88 và 5,9 ± 4,97. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tổng điểm và điểm về sự lảng tránh giữa các tỉnh nghiên cứu trong đó cao nhất ở Hà Nội, rồi đến Đà Nẵng, Quảng Nam và thấp nhất ở Thái Bình (p < 0,05). Một số yếu tố như giới tính, tuổi đời, có sống một mình không và nguy cơ phơi nhiễm với COVID-19 có liên quan đến sức khỏe tâm thần của nhân viên y tế trong đại dịch COVID-19
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nhân viên y tế có kiến thức và thực hành tốt về phòng, chống dịch COVID-19 sẽ góp phần quan trọng vào việc khống chế dịch COVID-19 lây lan. Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá tỉ lệ nhân viên y tế tại Việt Nam có kiến thức và thực hành đúng về phòng, chống dịch COVID-19 và một số yếu tố liên quan, năm 2020. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến hành trên 21.413 nhân viên y tế trực tiếp tham gia phòng, chống dịch COVID-19 tại các cơ sở y tế trên cả nước theo phương pháp ném bóng tuyết. Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ nhân viên y tế có kiến thức và thực hành đúng phòng, chống dịch COVID-19 lần lượt là 84,4% và 71,4%. Nhân viên y tế nữ, trẻ tuổi, có thâm niên công tác ≥ 10 năm và có nguy cơ tiếp xúc với COVID-19 thì có kiến thức về phòng, chống COVID-19 tốt hơn. Nhân viên y tế có thâm niên công tác ≥ 10 năm và có nguy cơ tiếp xúc với COVID-19 thì có thực hành về phòng, chống COVID-19 tốt hơn (p < 0,05)
Tạp chí Y học Quân sự
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí Dược học
Tạp chí Y học Quân sự
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí Y học Quân sự
Tạp chí Y học Quân sự
Tạp chí nghiên cứu Y học
Journal of Vaccines, Immunology and Immunopathology
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Khương Văn Duy, Trần Như Nguyên, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Thanh Thảo, Phạm Thị Quân, Nguyễn Quốc Doanh, Phan Thị Mai Hương, Tạ Thị Kim Nhung, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền, Trần Anh Thành
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Nguyễn Ngọc Anh, Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Phạm Thị Quân, Nguyễn Quốc Doanh, Phan Thị Mai Hương, Tạ Thị Kim Nhung, Khương Văn Duy, Lê Thị Hương, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền
Tạp chí Y học dự phòng
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|