Tạp chí nghiên cứu Y học
Thừa cân, béo phì và thói quen ăn uống không lành mạnh là các vấn đề dinh dưỡng của người bệnh ung thư tuyến giáp (UTTG). Nghiên cứu nhằm mô tả tình trạng dinh dưỡng và thói quen ăn uống của người bệnh UTTG tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 91 người bệnh UTTG. Thừa cân, béo phì lấy theo ngưỡng cho người châu Á với BMI ≥ 23 kg/m2 . Kết quả cho thấy tỷ lệ thừa cân, béo phì của người bệnh UTTG là 28,6%. Người bệnh có thói quen tiêu thụ thường xuyên các thực phẩm: thịt đỏ (67%), thực phẩm chiên rán (60,5%); thực phẩm chế biến sẵn (26,7%); rau họ cải (80,2%). Ngược lại, rất ít người bệnh thường xuyên tiêu thụ các thực phẩm sau: cá và hải sản (15,1%); hạt và quả hạch (3,5%); ngũ cốc nguyên hạt (3,5%); rau củ giàu beta-caroten (9,3%). Các yếu tố liên quan tới thừa cân, béo phì bao gồm: tuổi trên 60 (OR = 4,1); nam giới (OR = 5,2); và thường xuyên tiêu thụ thịt đỏ (OR = 3,4)
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá chất lượng cuộc sống (CLCS) và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư biểu mô tuyến giáp. Đối tượng: Nghiên cứu tiến hành trên 131 bệnh nhân chẩn đoán xác định là ung thư biểu mô tuyến giáp đã được phẫu thuật cắt tuyến giáp và chuyển tiếp điều trị xạ trị tại khoa Y học hạt nhân tại Bệnh viện K cơ sở Tân Triều từ tháng 12/2021 đến tháng 05/2022. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, bệnh nhân được đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng BMI và PG-SGA và tự hoàn thành bộ câu hỏi EORTC QLQ - C30 đánh giá CLCS tại thời điểm trước khi xạ trị. Kết quả cho thấy: 6,9% bệnh nhân được đánh giá nguy cơ suy dinh dưỡng nhẹ và vừa theo PG-SGA; 5,3% bệnh nhân nhẹ cân, 18,3% bệnh nhân thừa cân, béo phì theo BMI. điểm CLCS sức khỏe tổng quát trung bình là: 72,3 ± 14,6 (trên thang điểm 0 - 100, 100 điểm là tốt nhất). Phân tích hồi quy đa biến cho thấy các yếu tố giới tính, đặc điểm mô bệnh học (thể nang, thể nhú) có ảnh hưởng tới tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư biểu mô tuyến giáp với p <0,05.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến hành trên 91 người bệnh ung thư tuyến giáp tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2021 nhằm 2 mục tiêu: mô tả tình trạng dinh dưỡng, thói quen ăn uống và tình trạng hạ canxi huyết thanh của người bệnh ung thư tuyến giáp sau phẫu thuât tại bệnh viện đại học y hà nội; và phân tích một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng và tình trạng hạ canxi huyết thanh của người bệnh ung thư tuyến giáp sau phẫu thuật. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Không phải suy dinh dưỡng mà thừa cân, béo phì và tăng cân mới là vấn đề dinh dưỡng cần quan tâm ở người bệnh UTTG. Cụ thể, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở người bệnh UTTG chỉ chiếm 6,6% theo BMI; trong khi đó tỷ lệ thừa cân béo phì là 28,6%; có 28,6% tăng cân trong 1 tháng trước và 33% tăng cân trong 6 tháng trước. - Về thói quen ăn uống: người bệnh UTTG thường xuyên tiêu thụ một số nhóm thực phẩm không có lợi cho tuyến giáp đã được nghiên cứu như: thịt đỏ (với 67% thường xuyên tiêu thụ); thực phẩm chiên rán (60,5%); thực phẩm qua chế biến (26,7%); nhóm thực phẩm giàu goitrogens như rau họ cải (80,2%); đậu tương và các chế phẩm (39,5%). Ngược lại, người bệnh UTTG có thói quen tiêu thụ ít các nhóm thực phẩm có lợi và được khuyến cáo sử dụng như: cá và hải sản (15,1% sử dụng thường xuyên); hạt và quả hạch (3,5% sử dụng thường xuyên); ngũ cốc nguyên hạt (3,5% sử dụng thường xuyên); rau củ giàu beta caroten (9,3% sử dụng thường xuyên). Mặc dù phần lớn người bệnh đã sử dụng muối bổ sung iod trong chế biến món ăn (95,4%) nhưng phần lớn lại cho muối ngay từ đầu hoặc khi đang nấu – làm giảm hàm lượng iod trong thực phẩm. Có 27,5% hạ canxi huyết thanh sau phẫu thuật. Trong đó, 47,6% ở nhóm phẫu thuật toàn bộ tuyến giáp và 10,2% ở nhóm phẫu thuật 1 thùy tuyến giáp. Nồng độ canxi huyết thanh sau phẫu thuật thấp hơn trước phẫu thuật có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (trung bình là 2,14 ± 0,12 mmol/l so với 2,31 ± 0,08 mmol/l). Một số yếu tố liên quan tới tình trạng hạ canxi huyết thanh sau phẫu thuật bao gồm: có di căn hạch (OR = 2,6; p<0,05); phẫu thuật toàn bộ tuyến giáp (OR = 8,0; 95%CI: 2,4 – 27,2; p<0,01); bổ sung Vitamin D trước phẫu thuật (6,7% hạ canxi huyết thanh so với 31,6%; p=0,04); giảm PTH (1,7 ± 1,3 pmol/L ở nhóm hạ canxi so với 2,6 ± 0,9 pmol/L ở nhóm không hạ; p=0,0006); giảm 25(OH)D3 (19,1 ± 3,1 ng/ml so với 24,6 ± 12,5 ng/ml; p=0,04); nồng độ albumin (39,5 ± 6,9 g/l so với 40,0 ± 2,4 g/l; p=0,03). Nghiên cứu cho thấy, có mối tương quan trung bình giữa nồng độ 25(OH)D3 và nồng độ canxi huyết thanh sau phẫu thuật với r = 0,46, p<0,05. Ngược lại, nhóm phẫu thuật cắt 1 thùy tuyến giáp không có mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa hai chỉ số này với p>0,05. Nồng độ PTH sau phẫu thuật có mối tương quan trung bình với nồng độ canxi huyết thanh sau phẫu thuật với hệ số tương quan là r = 0,38; p = 0,0002.
Tạp chí nghiên cứu Y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|