Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống Sốt xuất huyết Dengue và một số yếu tố liên quan đến thực hành về phòng chống Sốt xuất huyết Dengue của sinh viên nội trú trường Đại học Thủy Lợi, Hà Nội năm 2023.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 198 sinh viên nội trú trường Đại học Thủy Lợi, quận Đống Đa, Hà Nội.
Kết quả: Điểm trung bình kiến thức, thái độ và thực hành về phòng chống Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) của đối tượng trong nghiên cứu này lần lượt là 12,21±6,27 điểm trên tổng 29 điểm, 22,99±5,79 điểm trên tổng 32,0 điểm và 6,21±3,17 điểm trên tổng 21 điểm. 52,5%, 54,0% và 54,5% sinh viên được đánh giá có kiến thức đạt, thái độ tích cực và thực hành đạt về phòng chống SXHD. Trong mô hình hồi quy logistic đa biến cho thấy sinh viên có kiến thức đạt hoặc được nhận thông tin về SXHD từ 2 hình thức truyền thông trở lên có khả năng có thực hành đạt về phòng chống SXHD cao hơn sinh viên có kiến thức không đạt và chưa được truyền thông về SXHD, trong khi sinh viên chuyên ngành công nghệ thông tin có khả năng có thực hành đạt về phòng chống SXHD thấp hơn sinh viên các chuyên ngành khác.
Kết luận: Tỷ lệ sinh viên nội trú có kiến thức đạt, thái độ tích cực và thực hành đạt về phòng chống SXHD vẫn còn thấp. Các yếu tố liên quan đến thực hành về phòng chống SXHD của sinh viên bao gồm: chuyên ngành học, kiến thức và số lượng hình thức truyền thông về SXHD mà đối tượng nghiên cứu đã nhận.
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và một số yếu tố liên quan đến thực hành tình dục an toàn của sinh viên năm thứ nhất khối ngành Sức khỏe trường Đại học Đại Nam năm học 2021 – 2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp định tính và định lượng, tiến hành từ tháng 3/2022 – 9/2023 ở 336 sinh viên năm thứ nhất khối ngành Sức khỏe trường Đại học Đại Nam năm học 2021 – 2022. Kết quả: Thực hành về tình dục an toàn của đối tượng nghiên cứu chưa cao. Tỉ lệ sinh viên đã QHTD là 16,1% sinh viên (18,9% nam, 14,5% nữ), 70,4% sinh viên tự nguyện quan hệ, có sử dụng BPTT (81,5%), trong đó BCS được sử dụng nhiều nhất (63,0%). Có 47,6% đối tượng nghiên cứu thực hành đạt về TDAT. Sinh viên nữ thực hành đạt về TDAT (61,2%) cao hơn nhiều so với sinh viên nam (23,8%) có ý nghĩa thống kê. Một số yếu tố liên quan đến thực hành về tình dục an toàn của đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu đạt kiến thức về SKSS có khả năng đạt thực hành tốt về QHTD cao hơn gấp 1,65 lần so với nhóm có kiến chưa đạt (p<0,05). Đối tượng nghiên cứu tham gia các buổi sinh hoạt, nói chuyện, truyền thông về SKSS có khả năng đạt thực hành về TDAT cao gấp 17,16 lần so với nhóm không tham gia (p<0,01).
Nghiên cứu này được tiến hành trên sinh viên trường Đại học Y Hà Nội nhằm mô tả kiến thức về dự phòng cấp I ung thư cổ tử cung và thực hành tiêm phòng vắc xin HPV và một số yếu tố liên quan ở sinh viên. Áp dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, phỏng vấn bằng bộ câu hỏi tự điền 1003 sinh viên cho kết quả: 75,4% sinh viên có kiến thức đạt về dự phòng UTCTC, điểm kiến thức TB về dự phòng UTCTC của ĐTNC là 15.2/25 điểm. Có 7 yếu tố có liên quan làm tăng kiến thức về dự phòng UTCTC của sinh viên bao gồm: tuổi ≥ 24; chuyên ngành y học dự phòng; sinh viên năm thứ 5 và thứ 6; ở ký túc xá; không hút thuốc lá; được cung cấp thông tin về UTCTC từ nhiều nguồn và tiền sử đã tiêm phòng vắc xin HPV từ 2 mũi trở lên. Tỷ lệ sinh viên nữ đã tiêm phòng vắc xin HPV là 25%. Các yếu tố liên quan đến thực hành tiêm phòng vắc xin HPV, làm tăng khả năng tiêm phòng vắc xin HPV của nữ sinh viên y bao gồm: tuổi <24; chuyên ngành y đa khoa; được cung cấp thông tin về UTCTC từ bạn bè, người thân; có quan hệ tình dục (QHTD) và xem văn hóa phẩm tình dục (VHPTD). Kết quả nghiên cứu cho thấy cần phải có các kế hoạch và chiến lược để gia tăng số lượng sinh viên tiếp cận với vắc xin phòng HPV.
Sinh viên y năm cuối là một trong những lực lượng nòng cốt đáp ứng nhu cầu về nhân lực phục vụ việc sinh viên chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trong tương lai. Vì vậy, tình trạng dinh dưỡng của nguồn nhân lực này là một vấn đề đáng để quan tâm và nghiên cứu. Mục tiêu: đánh giá tình trạng dinh dưỡng của sinh viên năm thứ 6 Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2022-2023; mô tả kiến thức và thực hành dinh dưỡng của sinh viên năm thứ 6 Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2022-2023. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 575 sinh viên năm thứ 6 Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2022-2023.
Kết quả nghiên cứu:
1. Tình trạng dinh dưỡng của sinh viên Y6 Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2022-2023
- Chiều cao trung bình sinh viên nam là 167,6 ± 6,2 (cm); Sinh viên nữ là 155,8 ± 5,1 (cm).
- Cân nặng trung bình sinh viên nam là 65,2 ± 11,2 (kg); Sinh viên nữ là 49,7 ± 6,8 (kg).
- Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn chung là 13,0%, trong đó ở sinh viên nữ là 20,0% có xu hướng cao hơn so với tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở sinh viên nam (4,0%).
- Tỷ lệ TCBP chung là 27,5%, tỷ lệ thừa cân, béo phì có xu hướng cao hơn ở sinh viên nam với 46,0% trong khi sinh viên nữ là 13,2%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,01)
2. Kiến thức và thực hành dinh dưỡng của sinh viên Y6 Trường Đại học Y Hà Nội
Về kiến thức dinh dưỡng:
Có 89% sinh viên Y6 có kiến thức “Đạt” về dinh dưỡng, trong đó kiến thức “đạt” về các chất dinh dưỡng là 78,6%, kiến thức “Đạt” về thừa cân, béo phì là 94,1%, kiến thức “đạt” về các bệnh mạn tính không lây là 83,7%.
Về thực hành dinh dưỡng:
- Thực hành về thói quen ăn uống: 77,2% sinh viên có thực hành về thói quen ăn uống tốt.
- Tần suất tiêu thụ thực phẩm: các loại phủ tạng động vật có tần suất tiêu thụ 1-2 lần/tuần cao nhất với 55,3%. Tần suất tiêu thụ bia, rượu vang, rượu mạnh hàng tuần (3-5 lần/tuần) chiếm tỉ lệ là 17,35%; 12,87% và 15,3%.
- Tỷ lệ sinh viên không có thói quen chấm hoặc cho thêm mắm muối vào đồ ăn và không ăn đêm chiếm tỷ lệ khá cao (72,5% và 77,7%).
- Thời gian hoạt động tĩnh tại trung bình của sinh viên nữ (899,6±455,2 phút/ngày) cao hơn so với sinh viên nam (832,1±307,5 phút/ngày).
Tạp chí Y học Việt Nam
Mục tiêu: Mô tả thực trạng tự chăm sóc bản thân của sinh viên Y khoa năm thứ ba Trường Đại Học Y Hà Nội và một số thuận lợi, khó khăn. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp định tính và định lượng. Kết quả: Trong các hành động tự chăm sóc bản thân, sinh viên thực hành tự chăm sóc thể chất chiếm tỷ lệ cao nhất (83,6%), xã hội (26,2%), cảm xúc (21,1%), tâm lý (8,3%) và tâm linh chiếm tỷ lệ thấp nhất (7,6%). Những yếu tố thuận lợi trong quá trình tự chăm sóc của sinh viên bao gồm: vận dụng kiến thức vào việc tự chăm sóc (15,3%), được sự giúp đỡ của gia đình, bạn bè hoặc những người khác với tỷ lệ lần lượt là 56,7%, 55,3%, 12,3%. Bên cạnh những thuận lợi, sinh viên cũng gặp phải một số khó khăn như: thiếu thời gian cho hoạt động tự chăm sóc (93%), căng thẳng, áp lực từ việc học (38,9%), phụ thuộc kinh tế gia đình (28,3%), môi trường sống chưa phù hợp (14,2%). Kết luận: Hành động tự chăm sóc thể chất thường được sinh viên quan tâm, thực hiện nhiều nhất so với các hoạt động tự chăm sóc khác.
Tạp chí Y học Việt Nam
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên trường Đại học Y Hà Nội năm học 2020- 2021 trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và một số yếu tố liên quan đến trầm cảm. Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang trên 1325 sinh viên trường Đại học Y Hà Nội, công cụ để đánh giá trầm cảm là thang đo DASS 21. Các thông tin khác được thu nhập bằng bộ câu hỏi tự soạn. Kết quả cho thấy có 57,1% sinh viên có nguy cơ mắc trầm cảm. Trong đó trầm mức độ nhẹ: 16,5%, trầm cảm mức độ vừa: 25,1%, trầm cảm mức độ nặng: 7,1%, rất nặng: 8,4%. Các yếu tố liên quan đến nguy cơ trầm cảm ở sinh viên là: khó khăn với tài chính, khó khăn với học trực tuyến và Covid-19: lo lắng vì dịch bệnh đang lây lan rộng, lo lắng rằng mình có khả năng mắc bệnh, sợ hãi về nhà vì có khả năng lây nhiễm bệnh cho gia đinh. Sinh viên tích cực rèn luyện, nâng cao sức khoẻ, có thời gian biểu khoa học. Nhà trường quan tâm, hỗ trợ sinh viên khó khăn về tài chính, tư vấn học tập.
Tạp chí Y học Việt Nam
Một nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 361 sinh viên trường Đại học Y Hà Nội nhằm mô tả thực trạng thực hành về phòng tránh dịch bệnh COVID-19 của sinh viên trường Đại học Y Hà Nội. Kết quả cho thấy tỷ lệ sinh viên có điểm thực hành các biện pháp phòng ngừa ở mức tốt là 85,6%. Phần lớn sinh viên chấp hành nghiêm túc theo chỉ thị của Nhà nước (99,7%), thường xuyên vệ sinh tay đúng cách (98,7%), bổ sung dinh dưỡng, tăng thể trạng (89,2%), đeo khẩu trang khi ra đường (96,4%). Sinh viên trường Đại học Y Hà Nội sử dụng mạng xã hội (92,5%), trang web chính thức của Bộ Y tế (87,3%) và tivi (75,3%) để cập nhật tình hình dịch bệnh và phòng chống dịch bệnh. Một số yếu tố liên quan đến thực hành phòng chống dịch COVID-19 được đưa ra như tuổi, giới tính, chuyên ngành, người nhà làm việc trong ngành Y. Tuy nhiên, các yếu tố này không có ý nghĩa thống kê. Cần có thêm các nghiên cứu mở rộng với quy mô lớn hơn nhằm đánh giá sâu hơn về hành vi phòng chống dịch COVID-19 và các yếu tố liên quan đến những hành vi này của sinh viên
Tạp chí Y học dự phòng
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng ăn đồ ăn nhanh của sinh viên (SV) trường Đại học Y Hà Nội (ĐHYHN) năm 2020 - 2021 và một số yếu tố liên quan. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 315 SV năm nhất, ba, và sáu bác sĩ y học dự phòng và cử nhân Dinh dưỡng. Kết quả là 82,2% SV sử dụng đồ ăn nhanh. Khảo sát 3 lần ăn đồ ăn nhanh gần ngày phỏng vấn nhất cho thấy SV ăn bánh mỳ kẹp truyền thống (43,7%); ăn đồ ăn nhanh tất cả các bữa chính và hiếm khi ăn vào bữa khuya/tối muộn và thường ăn kèm cùng với các loại đồ ăn khác (56,9%). Gần một nửa số lượt ăn đồ ăn nhanh của SV (43,9%) có kèm uống nước có ga. SV chủ yếu mua đồ ăn nhanh và ăn tại nhà. Lý do chủ yếu là tụ tập với bạn bè/ người thân và không có thời gian. Hồi quy logistic đa biến cho thấy SV có tài chính bình thường có xu hướng sử dụng đồ ăn nhanh nhiều hơn SV có tài chính khó khăn. Sử dụng đồ ăn nhanh của SV ĐHYHN là phổ biến. Cần thực hiện chương trình truyền thông và hướng dẫn chuyển đổi từ lựa chọn đồ ăn nhanh sang ăn có lợi cho sức khoẻ. Phong trào gặp gỡ bạn bè và ăn uống có lợi cho sức khoẻ cần được phát động với SV.
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 314 sinh viên trường Đại học Y Hà Nội nhằm mô tả thái độ của sinh viên về học trực tuyến do dịch COVID-19 năm 2021. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Sinh viên có thái độ chung là tích cực về học trực tuyến khi có dịch COVID-19. Thái độ hành vi và thái độ nhận thức dễ sử dụng có mức độ đồng ý cao nhất (trung bình mục = 3,8 và 3,9) nhưng thái độ cảm xúc và thái độ hữu ích ở ngưỡng phân vân và đồng ý (trung bình mục = 3,3) trên 5 là rất đồng ý (cao nhất). Cụ thể: sinh viên hứng thú với giờ học lý thuyết trực tuyến; tự tin, thoải mái trao đổi với thầy/cô khi học trực tuyến, và có nhiều thời gian để chuẩn bị bài và dễ dàng truy cập bài giảng (trung bình = 3,5 đến 4,0). Ngược lại, học trực tuyến còn một số hạn chế là tập trung chú ý, tạo động lực, giao tiếp trao đổi với bạn bè và thích hơn học trên giảng đường (trung bình = 2,9 đến 3,2). Nhà trường có thể thử nghiệm kết hợp giữa giảng trực tuyến một số bài giảng lý thuyết và giảng thực hành trực tiếp, từ đó tiếp tục đánh giá để đưa ra phương pháp dạy học hiệu quả đối với sinh viên.
Tạp chí Y học cộng đồng
Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện qua khảo sát trực tuyến trên 409 sinh viên đang học tập tại Trường Đại học Y Hà Nội nhằm mô tả khả năng đáp ứng của sinh viên đối với thay đổi phương thức dạy và học trong bối cảnh COVID – 19 và đánh giá của sinh viên về các phương pháp đó. Kết quả cho thấy hầu hết các sinh viên trường Đại học Y Hà Nội đều có khả năng đáp ứng với sự thay đổi phương thức học tập trong thời gian đại dịch COVID – 19 diễn ra, sự thích nghi của họ tuy không ở mức hoàn hảo nhưng sẽ được cải thiện trong thời gian tới. Sinh viên có những kỳ vọng vào việc kết hợp dạy/học trực tuyến vào hệ thống đào tạo sau này của nhà trường
Mục tiêu: 1. Mô tả thái độ về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất ngành bác sĩ y khoa của Trường Đại Học Y Hà Nội năm học 2020 - 2021.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến thái độ về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất ngành bác sĩ y khoa của Trường Đại Học Y Hà Nội năm học 2020 – 2021.
Đối tượng : Nghiên cứu được thực hiện trên sinh viên năm thứ nhất hệ bác sĩ y khoa năm học 2020-2021 tại trường Đại học Y Hà Nội.
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả chính:
1. Thái độ về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất ngành bác sĩ y khoa Trường Đại Học Y Hà Nội năm học 2020 - 2021.
Sinh viên năm nhất của hệ bác sĩ đa khoa đại học Y Hà Nội có thái độ tích cực về học kỹ năng giao tiếp hơn là thái độ tiêu cực.
Thái độ tích cực về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm nhất là cao đạt 49,7 điểm/ 65 điểm. Điểm trung bình tiểu mục cao nhất về vai trò và tầm quan trọng của học kỹ năng giao tiếp như “Phát triển KNGT của tôi cũng quan trọng như phát triển kiến thức của tôi về y học”, “học KNGT rất quan trọng vì khả năng giao tiếp là một kỹ năng suốt đời”, “tôi nghĩ rằng học KNGT rất hữu ích cho tấm bằng y khoa của mình”, hay “học kỹ năng giao tiếp đã và sẽ giúp tôi tôn trọng bệnh nhân”. Điểm đánh giá thấp nhất về học kỹ năng giao tiếp vui và thú vị.
Thái độ tiêu cực về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm nhất là thấp, đạt 31,8 điểm trên 65 điểm. Điểm trung bình tiểu mục đồng ý cao nhất là“Việc giảng dạy KNGT sẽ mang hình ảnh tốt đẹp hơn nếu nó giống một môn khoa học hơn”. Điểm trung bình tiểu mục không đồng ý nhất là “Tôi không hiểu học KNGT để làm gì”; “Tôi không cần KNGT giỏi để trở thành bác sĩ”
2. Một số yếu tố liên quan đến thái độ về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất ngành bác sĩ y khoa Trường Đại Học Y Hà Nội năm học 2020 – 2021.
Yếu tố liên quan đến thái độ tích cực về học KNGT: bố là bác sĩ, phương pháp đóng vai phù hợp để dạy KNGT, nội dung giảng dạy KNGT hấp dẫn, và sinh viên có bố mẹ và người thân cho rằng học KNGT là cần thiết.
Yếu tố liên quan đến thái độ tiêu cực về học KNGT: phương pháp đóng vai không phù hợp để dạy KNGT, nội dung giảng dạy KNGT không hấp dẫn, và bản thân sinh viên không cho rằng KNGT là cần thiết.
Sinh viên Phân hiệu trường Đại học Y Hà Nội tại Thanh hóa là nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị lây nhiễm virus Viêm gan B thông qua các hoạt động thực hành nghề nghiệp tại bệnh viện. Họ là những nhân viên y tế tương lai và còn là những người sẽ tư vấn cho cộng đồng phòng tránh lây nhiễm và những hậu quả do virus viêm gan B gây ra. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên toàn bộ sinh viên bác sĩ đa khoa hệ chính quy đang học từ năm thứ nhất đến năm thứ 6 tại Phân hiệu Thanh Hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ sinh viên đạt về kiến thức phòng lây nhiễm HBV chiếm 63,2%, không đạt chiếm 36,8%; Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giới tính, năm học và tìm hiểu về bệnh với kiến thức về phòng lây nhiễm virus viêm gan B. Cần tăng cường tuyên truyền nhằm cung cấp, củng cố kiến thức và nhắc nhở sinh viên thực hành phòng lây nhiễm virus viêm gan B có hiệu quả.
Mục tiêu:
1, Mô tả cách ứng phó với stress trong học tập của sinh viên khoa Ngoại ngữ tại trường Đại học Thăng Long, thành phố Hà Nội năm học 2021- 2022
2, Phân tích một số yếu tố liên quan đến cách ứng phó với stress trong học tập của sinh viên khoa Ngoại ngữ, trường Đại học Thăng Long, thành phố Hà Nội năm học 2021- 2022
Đối tượng:
Sinh viên Đại học Ngoại ngữ, trường Đại học Thăng Long, năm học 2021 – 2022
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang
Kết quả chính:
Các sinh viên chủ yếu sử dụng các chiến lược thuộc nhóm “Tiếp cận”, tuy nhiên vẫn có không ít sinh viên chọn cách ứng phó thuộc nhóm “Né tránh”. “Hỗ trợ xã hội” là nhóm được sử dụng ít nhất. Cần có các biện pháp hỗ trợ để các em sinh viên có thể từng bướ chuyển đổi từ áp dụng“Né tránh” sang “Hỗ trợ xã hội” và “Tiếp cận”.
Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu 1: Mô tả kiến thức, thái độ về kiểm soát nhiễm khuẩn cơ bản của sinh viên, học viên học tập tại bệnh viện Nhi Trung ương năm 2021 - 2022.
Mục tiêu 2: Mô tả một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về kiểm soát nhiễm khuẩn cơ bản của sinh viên, học viên học tập tại bệnh viện Nhi Trung ương năm 2021 - 2022.
Đối tượng: 412 sinh viên (sinh viên y khoa, sinh viên điều dưỡng), học viên (bác sĩ, điều dưỡng) đến thực hành tại bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 02/2022 đến tháng 03/2022
Phương pháp nghiên cứu: dịch tễ học mô tả cắt ngang, nhằm mục đích đánh giá kiến thức, thái độ về kiểm soát nhiễm khuẩn cơ bản và các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về kiểm soát nhiễm khuẩn cơ bản trên nhóm đối tượng học viên, sinh viên đến thực hành tại bệnh viện Nhi Trung ương.
Tóm tắt kết quả: Tỷ lệ học viên, sinh viên có kiến thức tốt về kiểm soát nhiễm khuẩn chưa cao, chỉ chiếm 46,6%. Nhóm đối tượng đã được đào tạo về kiểm soát nhiễm khuẩn có điểm trung bình kiến thức cao hơn nhóm chưa được đào tạo là 1,5 điểm và thời gian đào tạo trong vòng 6 tháng trở lại đây thì điểm trung bình cao hơn nhóm đã đào tạo trên 6 tháng khoảng 0,9 điểm. Học viên có kiến thức về kiểm soát nhiễm khuẩn tốt gấp 3 lần so với nhóm sinh viên. Trong nhóm học viên, đối tượng có kinh nghiệm làm việc dưới 5 năm lại có kiến thức về kiểm soát nhiễm khuẩn tốt hơn so với nhóm có kinh nghiệm làm việc trên 5 năm, gấp 1,87 lần (95% CI 1,24 - 2,82).
Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 7/2021 đến tháng 6/2022 trên 426 sinh viên Y đa khoa (từ năm nhất đến năm 6) đang học tại khoa Y trường đại học Buôn Ma Thuột nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng và mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của sinh viên. Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả nghiên cứu cho thấy chiều cao trung bình ở nam là 170,0±5,8 cm, ở nữ là 157,5±5,3 cm; cân nặng trung bình ở nam là 65,0±11,9 kg, ở nữ là 49,9±7,4 kg; BMI trung bình ở nam là 22,5±3,7 kg/m2, ở nữ là 20,1±2,7 kg/m2. Tỷ lệ sinh viên bị thiếu năng lượng trường diễn là 20% trong đó sinh viên nam là 4.2% và sinh viên nữ là 15.7%. Tỷ lệ sinh viên bị thừa cân/béo phì chung là 10.33% trong đó sinh viên nam là 7.5% và sinh viên nữ là 2.8%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Ngoài ra nghiên cứu còn cho thấy các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của sinh viên là điều kiện kinh tế gia đình, trình độ học vấn của mẹ và tần suất tiêu thụ thực phẩm như cá nạc, sữa.
Đặt vấn đề: Sinh viên y khoa có chương trình học và thi cử nặng nề, nếu tình trạng dinh dưỡng không đảm bảo sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới sức khoẻ, tinh thần và năng lực học tập. Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của sinh viên Khoa y, Trường Đại học Duy Tân. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 611 đối tượng là sinh viên ngành Y đa khoa từ năm thứ 2 đến năm thứ 7 trường Đại học Duy Tân từ tháng 04/2021 đến tháng 05/2022. Thông tin chung được thu thập qua phỏng vấn bằng bộ câu hỏi soạn sẵn có cấu trúc, các số đo nhân trắc được thu thập bằng các dụng cụ cân đo. Kết quả: Tỷ lệ sinh viên bị thiếu năng lượng trường diễn (CED) là 16,0%; thừa cân và béo phì lần lượt chiếm tỉ lệ là 10,3% và 1,0%. Kết luận: Tỷ lệ CED của sinh viên khoa Y Đại học Duy Tân ở mức vừa theo ngưỡng đánh giá mức độ phổ biến của CED trong cộng đồng theo WHO.
|