Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của sinh viên cử nhân Dinh dưỡng và cử nhân Y tế công cộng Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2023.
Đối tượng: Sinh viên ngành cử nhân Dinh dưỡng và cử nhân Y tế công cộng Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Thiết kế nghiên cứu: cắt ngang
Kết quả: Tỉ lệ SV ở mức CED và TCBP còn cao, lần lượt là 24% và 20%. Tỉ lệ SV có tình trạng dinh dưỡng ở mức bình thường phân loại theo BMI là 56%. Giá trị trung bình BMI của đối tượng nghiên cứu là 21,8 ± 4,7 kg/m2, nằm trong giới hạn bình thường theo phân loại của WHO năm 2000. Giá trị trung bình phần trăm mỡ cơ thể của đối tượng nghiên cứu là 24,8 ± 8,4%, ở SV nam là 19,6 ± 7,0 % và SV nữ là 27,7 ± 7,9 %. Một số yếu tố có liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của SV: giới tính, ngành học, nơi ở hiện tại, mức độ HĐTL, thời gian tĩnh tại.
Bối cảnh và mục tiêu: ĐTĐ type 2 đang gia tăng nhanh chóng tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh thiếu hụt các nghiên cứu tổng quan về TTDD của người bệnh. Để cung cấp cơ sở dữ liệu cho các chuyên gia y tế và cải thiện hiệu quả điều trị, nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu mô tả TTDD của người bệnh ĐTĐ type 2 trong giai đoạn 2019 - 2023 và phân tích thói quen ăn uống của nhóm người bệnh này tại Việt Nam.
Phương pháp: Nghiên cứu này áp dụng phương pháp tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp theo hướng dẫn từ Cochrane Handbook và PRISMA. Dữ liệu được thu thập từ các nguồn tạp chí y học thế giới và Việt Nam. Hai nghiên cứu viên độc lập trích xuất và đánh giá dữ liệu theo danh sách kiểm tra JBI. Phân tích dữ liệu bao gồm tính toán tỷ lệ tổng hợp, sử dụng biểu đồ Forrest và kiểm định I2, quản lý và phân tích số liệu được thực hiện bằng Stata-14 và Excel.
Kết quả: 38 nghiên cứu được xem xét với mẫu từ 50-519 người. Tuổi trung bình 47,33-73,9, BMI trung bình 22,3-24,5 kg/m2, thời gian mắc bệnh 5,13-9,65 năm. Chất lượng nghiên cứu trung bình đạt 72% (theo JBI). Kết quả phân tích gộp tỷ lệ TCBP lần lượt là 50% (BMI≥23), 28% (BMI≥25). Tỷ lệ SDD lần lượt là 47% (SGA) và 4% (BMI < 18,5). Nhóm ăn đêm, uống rượu bia, và ít tập thể dục có nguy cơ TCBP cao hơn đáng kể.
Kết luận: Tại Việt Nam, TCBP là vấn đề phổ biến đối với người bệnh ĐTĐ type 2, trong khi SDD cũng được ghi nhận, tuy ở mức thấp hơn. Một số thói quen ăn uống được xác định là yếu tố nguy cơ của TCBP, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện chế độ dinh dưỡng và thúc đẩy lối sống lành mạnh trong quản lý và kiểm soát bệnh ĐTĐ type 2 tại Việt Nam.
Tạp chí nghiên cứu Y học
Thừa cân, béo phì và thói quen ăn uống không lành mạnh là các vấn đề dinh dưỡng của người bệnh ung thư tuyến giáp (UTTG). Nghiên cứu nhằm mô tả tình trạng dinh dưỡng và thói quen ăn uống của người bệnh UTTG tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 91 người bệnh UTTG. Thừa cân, béo phì lấy theo ngưỡng cho người châu Á với BMI ≥ 23 kg/m2 . Kết quả cho thấy tỷ lệ thừa cân, béo phì của người bệnh UTTG là 28,6%. Người bệnh có thói quen tiêu thụ thường xuyên các thực phẩm: thịt đỏ (67%), thực phẩm chiên rán (60,5%); thực phẩm chế biến sẵn (26,7%); rau họ cải (80,2%). Ngược lại, rất ít người bệnh thường xuyên tiêu thụ các thực phẩm sau: cá và hải sản (15,1%); hạt và quả hạch (3,5%); ngũ cốc nguyên hạt (3,5%); rau củ giàu beta-caroten (9,3%). Các yếu tố liên quan tới thừa cân, béo phì bao gồm: tuổi trên 60 (OR = 4,1); nam giới (OR = 5,2); và thường xuyên tiêu thụ thịt đỏ (OR = 3,4)
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện năm 2020-2021 nhằm mô tả tình trạng dinh dưỡng, thói quen ăn uống và hoạt động thể lực của 2452 học sinh từ 11-14 tuổi tại 6 trường THCS thuộc hai quận nội thành Hà Nội. Số liệu được thu thập bằng phương pháp cân đo trực tiếp tại trường học.
Kết quả cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi của học sinh là 0,9%, gầy còm là 2,7%. Tỷ lệ thừa cân là 25,2%, giảm dần theo tuổi từ 11-14 tuổi lần lượt là 28,4%; 27,9%; 20,9%;17,8% (p<0,05). Tỷ lệ thừa cân ở trẻ nam cao hơn ở trẻ nữ (28% và 22,1%) với p<0,05. Không có sự khác biệt về tỷ lệ thừa cân giữa quận Ba Đình và quận Long Biên (26,1% và 24,3% với p>0,05). Tỷ lệ béo phì là 13,2% cũng giảm dần theo tuổi từ 11-14 lần lượt là 21%;13,1%;7,7%;7,3% với p<0,05; ở trẻ nam cao hơn ở trẻ nữ (19,9% và 5,6%) với p<0,05; Có sự khác biệt về tỷ lệ béo phì giữa 2 quận, quận Ba Đình cao hơn quận Long biên (15,7% và 10,6%) với p<0,05. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng thừa cân, béo phì như độ tuổi, giới tính, địa điểm (p<0,05)..
Một số thói quen ăn uống của học sinh: 67,8% ăn 3 bữa trên ngày; 81,8% thường xuyên ăn sáng; 54,8% luôn luôn và thường xuyên cho mắm muối vào đồ ăn; từ 51,7% đến 73,5% có thói quen giúp giảm lượng muối ăn; 46,7% ăn quà vặt ngoài cổng trường.
Tần suất tiêu thụ một số thực phẩm trong 30 ngày qua của học sinh: Tần suất tiêu thụ một số thực phẩm ≥ 1 lần trên ngày khá cao như: 39,2% với nước ngọt có ga/nước ngọt đóng chai; 12,7% với bia, rượu đồ uống có cồn; 18,1% với các loại phủ tạng động vật; 30,4% với mỳ ăn liền; 34,1% với đồ ngọt. Trong khi với các loại rau củ là 79,7%, các loại quả chín là 77%.
Tỷ lệ học sinh HĐTL đủ theo hướng dẫn tiêu chuẩn của WHO (≥60 phút/ngày, tất cả các ngày trong tuần) là 39,4%. Trong khi đó, có tới 60,6 % học sinh thiếu HĐTL theo hướng dẫn. Trong những học sinh thiếu HĐTL ở học sinh nữ cao hơn ở học sinh nam lần lượt là 44,2% và 38,3%(p<0,05); giảm dần độ tuổi từ 11-14. Thời gian hoạt động tĩnh trong ngày >3 giờ là 39%; ≤3 giờ là 61%; không có sự khác biệt về thời gian ngủ ở học sinh nam và học sinh nữ. Thời gian ngủ đêm trên ngày học sinh ngủ nhỏ hơn 8 giờ chiếm 46,4%; ¬¬¬từ 8-10 giờ là 50,7%; lớn hơn 10 giờ là 2,9%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa HĐTL, thời gian hoạt động tĩnh, thời gian ngủ tối với tình trạng TC, BP của học sinh.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Y học Thành phố Hồ Chí Minh
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí Nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí Y học Thực hành
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|