Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 354 trẻ dưới 24 tháng tuổi và bà mẹ của trẻ tại Phòng khám Đa khoa và khám bệnh nghề nghiệp, Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng năm 2023-2024 với mục tiêu: 1) đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 24 tháng tuổi tại Phòng khám Đa khoa và khám bệnh nghề nghiệp Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng năm 2023 – 2024.; và 2) mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 24 tháng tuổi tại Phòng khám Đa khoa và khám bệnh nghề nghiệp Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng năm 2023 – 2024. Tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân và gầy còm trong nghiên cứu khá thấp, cụ thể suy dinh dưỡng nhẹ cân là 1,4%, suy dinh dưỡng gầy còm là 2,8%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi còn tương đối cao là 7,3%. Tỷ lệ thừa cân, béo phì là 5,4%. Cân nặng lúc sinh: trẻ có cân nặng lúc sinh thấp <2500g thì nguy cơ mắc suy dinh dưỡng thể thấp còi cao gấp 13,6 lần so với những trẻ có cân nặng lúc sinh ≥2500g, cân nặng lúc sinh từ 4000g trở lên có nguy cơ bị thừa cân, béo phì cao gấp 7,7 lần những trẻ có cân nặng lúc sinh dưới 4000g. Tuần thai khi sinh: trẻ sinh lúc ≤37 tuần có nguy cơ suy dinh dưỡng thể thấp còi cao gấp 3,5 lần so với những trẻ sinh lúc >37 tuần. Ăn uống của mẹ trong thai kỳ: những bà mẹ ăn ít hơn trong thai kỳ có nguy cơ có con bị suy dinh dưỡng thể gầy còm cao gấp 5,7 lần so với những bà mẹ ăn như bình thường và ăn nhiều hơn trong thai kỳ. Học vấn của mẹ: trẻ là con của những bà mẹ có trình độ học vấn dưới đại học có nguy cơ suy dinh dưỡng gầy còm cao gấp 3,9 lần những trẻ là con của bà mẹ có trình độ học vấn đại học/sau đại học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 474 trẻ dưới 24 tháng tuổi và mẹ của trẻ tại phòng tiêm chủng – Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung Ương nhằm mô tả kiến thức, thực hành nuôi con của các bà mẹ và đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Trẻ được cân đo chỉ số nhân trắc và phỏng vấn bà mẹ bằng bộ câu hỏi. Kết quả nghiên cứu cho thấy thực hành chăm sóc bà mẹ mang thai và sau sinh tốt, có 98.95% bà mẹ khám thai từ 3 lần trở lên; 80,4% bà mẹ tăng từ 10kg trở lên trong thai kì; thời gian bổ sung vi chất trung bình của bà mẹ là 8 tháng. Về cơ bản kiến thức NCBSM của các bà mẹ tốt tuy nhiên còn một số chênh lệch giữa kiến thức và thực hành. So với trẻ đẻ thường, trẻ đẻ mổ có nguy cơ bú mẹ ngoài 1 giờ sau sinh cao hơn 4,7 lần; nguy cơ ăn ngoài sữa mẹ trước bú lần đầu cao hơn 3,1 lần và nguy cơ ăn ngoài sữa mẹ trong 2 ngày đầu sau sinh cao hơn 3,1 lần. So với trẻ có trọng lượng lúc sinh trên 2500g, những trẻ khi sinh nhẹ cân (<2500g) có nguy cơ bú mẹ ngoài 1 giờ sau sinh cao gấp 3 lần; nguy cơ ăn ngoài sữa mẹ trước bú lần đầu cao hơn 5,3 lần và nguy cơ ăn ngoài sữa mẹ trong 2 ngày đầu sau sinh cao hơn 5,2 lần. Tỉ lệ kiến thức đúng - thực hành tốt về ABS của bà mẹ khá cao. Số bữa ăn theo độ tuổi của trẻ 24 giờ qua phù hợp với khuyến cáo. Một số chỉ số IYCF 2020 đạt tỉ lệ cao như: 99,8% trẻ có khẩu phần ăn đa dạng tối thiểu, 87% trẻ có tần suất bữa ăn tối thiểu. Tỉ lệ SDD thể gầy còm là 2,5%; SDD thể thấp còi là 4,4%; SDD thể nhẹ cân là 2,7%; thừa cân – béo phì là 4,4%. Trẻ có trọng lượng khi sinh dưới 2500g có nguy cơ SDD thấp còi gấp 4 lần, nguy cơ SDD nhẹ cân gấp 11,4 lần trẻ có cân nặng khi sinh từ 2500g trở lên. Trẻ có mẹ tăng dưới 10kg trong thai kì có nguy cơ SDD nhẹ cân gấp 3,8 lần trẻ có mẹ tăng từ 10kg trở lên. Trẻ có mẹ mang thai ăn ít hơn trước khi có thai có nguy cơ SDD gầy còm cao gấp 4,3 lần và có nguy cơ SDD nhẹ cân gấp 6 lần những trẻ còn lại. Trẻ có mẹ nghĩ rằng nên dùng bình/chai thay vì cho trẻ bú mẹ trực tiếp có nguy cơ SDD gầy còm gấp 3,7 lần và có nguy cơ SDD nhẹ cân gấp 4,2 lần trẻ có bà mẹ nghĩ rằng điều này là không nên.
|