Cắt cụt chi dưới là một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến chất lượng lượng cuộc sống và thời gian sống của người bệnh đái tháo đường. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ cắt cụt chi dưới ở người bệnh đái tháo đường tuýp 2 điều trị nội trú bệnh viện Nội tiết Trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 200 người bệnh tại khoa Chăm sóc bàn chân từ tháng 8/2023 đến tháng 4/ 2024. Kết quả: 71,5% người bệnh đái tháo đường tham gia nghiên cứu trên 60 tuổi, trong đó 67,5% là nam, thời gian điều trị loét trước khi nhập viện từ 7 – 30 ngày (66%), loét độ 3 chiếm (55%), độ 4(16%), chỉ có 2 trường hợp loét độ 5. Diện tích vết loét chủ yếu 1- 5 cm2(57%). Người bệnh nhiễm trùng nặng chiếm (17%) Tỉ lệ cắt cụt chi dưới là 31,5%. Kết luận: Tỉ lệ loét bàn chân ở nam giới trong nghiên cao hơn nữ giới. Đa số người bệnh loét bàn chân trong độ tuổi 60 – 69 tuổi, loét độ 3 chiếm tỉ lệ cao nhất là 55,5%. Vết loét khi nhập viện trong tình trạng nhiễm trùng mức độ nhẹ - trung bình là 83%. Diện tích vết loét chủ yếu trong nhóm 1 -5 cm2 chiếm 57%. Tỉ lệ cắt cụt chi dưới trong nghiên cứu là 31,5%.
Mục tiêu:
- Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh đái tháo đường type 2 đang điều trị nội trú tại khoa Thận – Nội tiết Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, năm 2023 - 2024.
- Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh đái tháo đường type 2 đang điều trị nội trú tại khoa Thận – Nội tiết Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, năm 2023-2024.
Phương pháp: Nghiên cứu trên 245 người bệnh ĐTĐ týp 2. Tình trạng dinh dưỡng được xác định theo BMI khuyến nghị cho người châu Á và MNA. Phân tích hồi quy logistic đơn biến được áp dụng để xác định một số yếu tố liên quan đến TC-BP.
Kết quả: Tình trạng dinh dưỡng theo BMI có tỷ lệ SDD, bình thường, thừa cân, béo phì lần lượt là: 8,6%; 53,9%; 25,7%;11,8%. Theo MNA có tỷ lệ bình thường, có nguy cơ SDD và SDD lần lượt là 18%; 62,4% và 19,6%. Tăng khả năng bị TC-BP ở nhóm người có học vấn trên trung học phổ thông (THPT) so với nhóm có học vấn từ THPT trở xuống (OR = 5,8; p<0,001), tăng khả năng bị TC-BP ở nhóm người có rối loạn lipid máu so với nhóm không rối loạn lipid máu (OR=7,0; p<0,001). Tăng khả năng TC –BP ở nhóm có uống rượu bia so với nhóm không uống rượu bia ( OR = 5,3; p<0,001). Tăng khả năng TC-BP ở nhóm không tập thể dục so với nhóm có tập thể dục ( OR =2,2;p<0,05)
Kết luận: Tỷ lệ SDD và TC- BP theo BMI là 8,6% và 37,5%. Tỷ lệ nguy cơ SDD và SDD theo MNA là 62,4% và 19,6%. Các yếu tố liên quan đến TC-BP là trình độ học vấn trên THPT, có rối loạn lipid máu, uống rượu bia, không tập thể dục.
Tạp chí Y học dự phòng
|