Mô tả thực trạng mắc các dấu hiệu trầm cảm ở người cao tuổi tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An năm 2023. qua đó phân tích một số yếu tố liên quan đến mắc các dấu hiệu trầm cảm ở nhóm đối tượng trên.đối tượng: người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) đang sinh sống và có hộ khẩu thường trú tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Tỷ lệ mắc các dấu hiệu trầm cảm ở người cao tuổi theo thang đo đánh giá trầm cảm GDS-15 là 28,2%. Mức độ trầm cảm chủ yếu tập trung ở mức độ nhẹ chiếm tỷ lệ 19,1%; còn lại mức độ vừa và nặng là 9,1%.
Mục tiêu sau:
1. Xác định nồng độ kháng thể gắn kết và tỷ lệ mắc bệnh COVID-19 sau khi tiêm vắc xin AstraZeneca và Pfizer ở người 60 tuổi trở lên tại một số điểm tiêm chủng năm 2021-2022.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến nồng độ kháng thể gắn kết và tỷ lệ mắc bệnh COVID-19 sau khi tiêm vắc xin AstraZeneca và Pfizer ở nhóm đối tượng trên.
- Đối tượng: Người dân từ 60 tuổi trở lên tham gia tiêm chủng vắc xin phòng bệnh COVID-19 tại các điểm tiêm chủng thuộc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Viện dưỡng lão ALH, xã Xuân Quan và Thắng Lợi thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
- Thiết kế nghiên cứu: thuần tập tiến cứu
- Kết quả:
+ Kết quả định lượng kháng thể sau khi tiêm chủng vắc xin AstraZeneca và Pfizer ở các nhóm đối tượng nghiên cứu cho thấy cả hai loại vắc xin này đều có khả năng sinh kháng thể kháng vi rút SARS-CoV-2.
+ Nồng độ kháng thể đạt đỉnh sau tiêm vắc xin mũi thứ hai 14 ngày, giảm dần đến thời điểm trước khi tiêm mũi thứ ba và sau đó tiếp tục tăng sau liều thứ ba 3 tháng.
+ Có 12,7% đối tượng nghiên cứu nhiễm SARS-CoV-2 sau khi tiêm mũi 2 vắc xin.
+ Đối với nhóm đối tượng được tiêm vắc xin AstraZeneca thì nữ giới có nồng độ kháng thể cao hơn nam giới, đối với nhóm đối tượng được tiêm vắc xin Pfizer không có sự khác biệt nồng độ kháng thể giữa các nhóm giới tính, tuổi và bệnh lí kèm theo.
+ Nhóm đối tượng nghiên cứu có tình trạng bệnh mạn tính kèm theo có tỷ lệ nhiễm SARS-CoV-2 sau tiêm chủng cao hơn đối tượng không có bệnh mạn tính.
Mục tiêu: nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng và phân tích một số yếu tố liên quan đến mắc các dấu hiệu trầm cảm ở người cao tuổi tại khu tái định cư. Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 262 người cao tuổi (60 tuổi trở lên) tại khu tái định cư, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh năm 2022. Trầm cảm ở người cao tuổi được đánh giá bằng thang đo GDS-15 (điểm GDS >5: gợi ý trầm cảm). Kết quả: Tỷ lệ mắc các dấu hiệu trầm cảm ở người cao tuổi là tương đối cao với 34,4%, chủ yếu tập trung ở mức độ nhẹ (25,2%); mức độ vừa và nặng chiếm 9,2%. Các yếu tố tôn giáo, điều kiện kinh tế, hoạt động xã hội, thời gian tái định cư, chất lượng cuộc sống, hoạt động thể lực có mối liên quan đến mắc các dấu hiệu trầm cảm ở người cao tuổi (p<0,05). Kết quả mô hình phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy NCT mắc bệnh mãn tính có nguy cơ trầm cảm cao gấp 2,86 lần (95% CI: 1,03 - 7,94) so với người cao tuổi không mắc bệnh mãn tính, những người cao tuổi có chất lượng cuộc sống thấp có nguy cơ trầm cảm cao gấp 5,24 lần (95% CI: 1,75 - 15,63) so với NCT có chất lượng cuộc sống cao và người cao tuổi sinh sống tại khu tái định cư dưới năm 5 có nguy cơ trầm cảm cao gấp 2,34 lần (95% CI: 1,13 - 4,83) so với những người cao tuổi sinh sống tại đây từ 5 năm trở lên. Kết luận: Chính quyền và y tế địa phương cần có các chính sách quan tâm đến sức khỏe tâm thần và có các biện pháp giảm các yếu tố liên quan, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống cho những người cao tuổi tại khu tái định cư.
Hiện nay, nhiều quốc gia đang có sự chuyển dịch về phân bố tuổi dân số từ trẻ sang già và già hóa dân số trở thành một hiện tượng toàn cầu. Suy giảm chức năng vị giác ở người cao tuổi là một vấn đề phổ biến, đồng thời là một thách thức đối với sức khỏe cộng đồng vì chúng có thể gây ra nhiều tác động tiêu cực đến sức khỏe (tăng nguy cơ suy dinh dưỡng và ngộ độc thực phẩm) và chất lượng cuộc sống của họ. Việc đánh giá vị giác và cấu trúc thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì chế độ ăn uống lành mạnh và đảm bảo sự thỏa mãn từ bữa ăn cho nhóm đối tượng này. Các nghiên cứu về đánh giá vị giác và cấu trúc thực phẩm được sử dụng cho người cao tuổi có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những thay đổi cảm quan thực phẩm và phát triển các chiến lược dinh dưỡng và chăm sóc phù hợp để đáp ứng nhu cầu của người cao tuổi. Nằm trong bối cảnh của sự gia tăng dân số già, việc chăm sóc dinh dưỡng cho người cao tuổi ngày càng được quan tâm và chú trọng, đặc biệt trong môi trường chăm sóc đặc thù là các viện dưỡng lão, tuy nhiên các nghiên cứu đánh giá vị giác và cấu trúc thực phẩm của người cao tuổi sử dụng các thang đo đánh giá ngắn gọn trên thế giới cũng như ở Việt Nam còn hạn chế, nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài nghiên cứu “Mô tả hình thức bữa ăn và vị giác của người cao tuổi tại trung tâm chăm sóc người cao tuổi Tuyết Thái thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội năm 2023” với các mục tiêu nghiên cứu sau:
Mục tiêu nghiên cứu
1. Mô tả hình thức bữa ăn của người cao tuổi tại trung tâm chăm sóc người cao tuổi Tuyết Thái thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội năm 2023.
2. Đánh giá vị giác của người cao tuổi và một số yếu tố liên quan tại trung tâm chăm sóc người cao tuổi Tuyết Thái thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội năm 2023.
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng được lựa chọn tham gia nghiên cứu là: người cao tuổi đang được chăm sóc tại Trung tâm điều dưỡng người cao tuổi Tuyết Thái, huyện Đông Anh, Hà Nội, với các tiêu chuẩn bao gồm:
Tiêu chuẩn lựa chọn
Người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên.
Đối tượng có tình trạng sức khỏe tốt, tỉnh táo, có khả năng giao tiếp tốt và trả lời bảng hỏi bình thường.
Đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Người cao tuổi bị các khuyết tật trên cơ thể không thuận lợi để tiến hành đo chỉ số nhân trắc như gù, cụt chân, các trường hợp đi đứng khó khăn...
Người cao tuổi quá già yếu, khiếm thính, khiếm thị, đang điều trị bệnh nặng không thể tham gia nghiên cứu.
Người cao tuổi mắc các bệnh lý không thể trả lời phỏng vấn (như Alzheimer, rối loạn tâm thần…).
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang.
Phương pháp chọn mẫu toàn bộ
Kết quả chính
1. Mô tả hình thức bữa ăn của người cao tuổi tại trung tâm chăm sóc người cao tuổi Tuyết Thái thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội năm 2023.
Trong tổng số 100 người cao tuổi tham gia nghiên cứu, theo phân loại của MNA-SF, tỷ lệ người cao tuổi bị suy dinh dưỡng chiếm 37,0%, nguy cơ suy dinh dưỡng chiếm 49,0% và chỉ có 14,0% người cao tuổi tham gia nghiên cứu có dinh dưỡng bình thường. Trong số nhưng người bị suy dinh dưỡng, tỷ lệ người cao tuổi có hình thức bữa ăn xay lỏng chiếm tới 29,7%, xay nhuyễn (súp) chiếm 13,5% và mềm, miếng vừa ăn chiếm 18,9%. Giá trị p < 0,001 cho thấy kết quả có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, người cao tuổi có nhiều hơn hai bệnh lý kèm theo có hình thức bữa ăn xay lỏng (40,9%) cao hơn so với người cao tuổi có ít hơn hai bệnh lý kèm theo (5,1%).
2. Đánh giá vị giác và một số yếu tố liên quan của người cao tuổi tại trung tâm chăm sóc người cao tuổi Tuyết Thái thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội năm 2023.
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số người cao tuổi tham gia nghiên cứu cho biết có cảm giác thèm ăn ở mức trung bình trở lên, tỷ lệ người cao tuổi cho biết cảm giác thèm ăn ở mức kém chiếm 30,0%, có cảm giác vị thực phẩm ở mức tệ chiếm 21,0%. Theo phân loại bảng hỏi đánh giá vị giác SNAQ, tỷ lệ người cao tuổi có nguy cơ giảm cân dưới 5% chiếm 30,0% và có nguy cơ giảm cân ít nhất 5% chiếm 70,0%.
Từ kết quả hồi quy đơn
Nghiên cứu thực hiện trên người bệnh cao tuổi mắc COPD với 02 mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng, Sarcopenia của người bệnh cao tuổi mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM năm 2023 - 2024 và Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng, Sarcopenia của người bệnh cao tuổi mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM năm 2023 - 2024. Với thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 251 người bệnh cao tuổi mắc COPD tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM ghi nhận kết quả:
- Tỷ lệ sarcopenia theo AWGS 2019: 59,8%
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng theo GLIM: 53,8%
- Tỷ lệ hội chứng suy dinh dưỡng – sarcopenia: 47,0%
Các yếu tố liên quan được tìm thấy trong nghiên cứu:
- Các yếu tố liên quan đến tình trạng sarcopenia gồm: tuổi, khối khoáng xương, góc Pha và tình trạng hút thuốc lá.
- Các yếu tố liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng gồm: tuổi, khối khoáng xương, năng lượng chuyển hoá cơ bản/ cân nặng và góc Pha.
- Các yếu tố liên quan đến hội chứng suy dinh dưỡng – sarcopenia gồm: tuổi, khối khoáng xương, năng lượng chuyển hoá cơ bản/ cân nặng và góc Pha.
Mục tiêu: Mô tả tình trạng dinh dưỡng, chức năng khoang miệng và nhận xét một số yếu tố liên quan của người cao tuổi tại Trung tâm chăm sóc người cao tuổi Tuyết Thái, Hà Nội năm 2023. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, phương pháp chọn mẫu toàn bộ đối tượng là người cao tuổi đang được chăm sóc toàn thời gian tại Trung tâm chăm sóc người cao tuổi Tuyết Thái. Thực tế thu thập được 100 đối tượng nghiên cứu. Kết quả: Tình trạng dinh dưỡng là bình thường, có nguy cơ SDD và bị SDD theo MNA lần lượt là 20,0%, 47,0% và 33,0%. Tỷ lệ SDD và không SDD theo chu vi vòng bụng chân (CC) lần lượt là 70,0% và 30,0%. Chức năng khoang miệng là bình thường, kém, rất kém theo bộ công cụ OHAT lần lượt là 65,0%, 32,0% và 3,0%. Nhóm có độ tuổi ≥ 75 có nguy cơ bị SDD theo MNA cao gấp 3,6 lần (95%CI: 1,2 – 10,5) so với nhóm < 75 tuổi. Nhóm đối tượng sử dụng > 3 thuốc mỗi ngày có nguy cơ có chức năng khoang miệng theo OHAT là kém và rất kém cao gấp 3,1 lần (95%CI: 1,1 - 8,8) so với nhóm dùng ≤ 3 thuốc, con số này ở nhóm có so với nhóm không sa sút trí tuệ là 3,7 lần (95%CI: 1,3 – 10,9).
Mục tiêu mô tả khẩu phần thực tế của người cao tuổi tại Trung tâm chăm sóc người cao tuổi Tuyết Thái Hà Nội năm 2023 và mô tả mối liên quan giữa khẩu phần thực tế với tình trạng dinh dưỡng ở đối tượng trên. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, phương pháp chọn mẫu toàn bộ đối tượng là người cao tuổi đang được chăm sóc toàn thời gian tại Trung tâm chăm sóc người cao tuổi Tuyết Thái. Thực tế thu thập được 100 đối tượng nghiên cứu. Kết quả: Khẩu phần của đa số đối tượng nghiên cứu không đáp ứng đủ năng lượng, hầu hết các vitamin và khoáng chất cần thiết theo nhu cầu khuyến nghị. Năng lượng trung bình trong khẩu phần đối tượng nghiên cứu là 1231,9± 270,1 kcal/ngày, lượng Glucid, protein, lipid trung bình trong khẩu phần lần lượt là 176,3± 43,2g/ngày, 50,0± 13,1 g/ngày, và 36,2± 6,6 g/ngày. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa đường nuôi ăn, khẩu phần Protein, Lipid, Glucid, Phospho, Kẽm, Vitamin A, Vitamin B1, Vitamin B6, Vitamin D của đối tượng nghiên cứu và tình trạng dinh dưỡng theo MNA với p<0,05. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa lượng Phospho, Kẽm và Sắt trong khẩu phần của đối tượng nghiên cứu và tình trạng dinh dưỡng theo BMI, với p< 0,05.
Tạp chí Y học Việt Nam
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và điều tra yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng ở người bệnh cao tuổi mắc bệnh thận mạn giai đoạn 3-5 chưa điều trị thay thế. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Người bệnh ≥ 60 tuổi mắc bệnh thận mạn điều trị nội trú tại khoa Thận tiết niệu – Lọc máu, bệnh viện Hữu Nghị. Kết quả: Tỷ lệ suy dinh dưỡng theo MNA là 14,1%, tỷ lệ suy dinh dưỡng theo BMI là 13,2%, tỷ lệ suy dinh dưỡng theo albumin huyết thanh là 23,6%. Điểm MNA trung bình giảm dần theo giai đoạn bệnh 3, 4, 5, lần lượt là 24,1±3,1; 22,1±4,4; 21,0±3,6 điểm (p < 0,05). Tình trạng dinh dưỡng có liên quan đến giai đoạn bệnh (OR = 3,1, 95%CI: 1,1-9,8, p < 0,05), albumin huyết thanh < 35 g/L (OR 5,8, 95%CI: 1,8-21,5, p < 0,05) và tình trạng thiếu máu (OR = 3,0, 95%CI: 1,1-8,3, p < 0,05). Kết luận: Người cao tuổi mắc bệnh thận mạn có tỷ lệ suy dinh dưỡng khá cao, có mối liên quan giữa tình trạng suy dinh dưỡng với giai đoạn bệnh, albumin và tình trạng thiếu máu
Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm
Mục tiêu: Mô tả sự thay đổi tunh trạng dinh dưỡng ở trẻ dưới 24 tháng tuổi tại 3 tỉnh Miền núi phía Bắc thông qua mô hunh sản xuҩt và tiếp thị thức ăn bổ sung tại địa phương. Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp cộng đồng bán thực nghiệm không có nhóm đối chứng qua 2 điều tra cắt ngang độc lập trước can thiệp (n=799) và sau 6 tháng can thiệp (n=680) ở trẻ dưới 24 tháng tuổi3 tỉnh Lai Châu, Lào Cai và Hà Giang. Các hoạt động can thiệp gồm tiếp thị xã hội thức ăn bổ sung tăng cường vi chҩt sản xuҩt tại địa phương và tư vҩn dinh dưỡng trên cơ sở hệ thống Mặt trời bé thơ. Kết quả: Sau can thiệp sự thay đổi có ý nghĩa thống kê (p 0,05) sau can thiệp: SDD thể nhẹ cân giảm từ 15,0xuống 12,3; SDD thể thҩp czi giảm từ 24,0xuống 23,2; SDD thể gầy czm giảm từ 8,8xuống 7,7. Kết luận: Mô hunh can thiệp bước đầu cho thҩy sự tăng về Z-Score cân nặng theo tuổi và cân nặng theo chiều cao, chưa có sự thay đổi rõ tunh trạng SDD của trẻ em dưới 24 tháng tuổi trên địa bàn nghiên cứu.
Mục tiêu:
1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh cao tuổi mắc bệnh tim mạch tại Bệnh viện II Lâm Đồng năm 2021-2022.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh cao tuổi mắc bệnh tim mạch tại Bệnh viện II Lâm Đồng năm 2021-2022.
Đối tượng: Tất cả bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên nhập viện tại khoa Nội - Lão khoa - Tim mạch có bệnh lý tim mạch tại Bệnh viện II Lâm Đồng năm 2021-2022.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, lấy mẫu thuận tiện đến khi đủ cỡ mẫu.
Kết quả chính:
- Phân loại TTDD theo BMI: thiếu năng lượng trường diễn (CED): 15,2%, bình thường: 72,5% và thừa cân, bép phì: 12,3%.
- Phân loại TTDD theo MNA: có nguy cơ dinh dưỡng: 56,7% và không có nguy cơ dinh dưỡng: 43,3%.
- Phân loại TTDD theo NRS-2002: có nguy cơ dinh dưỡng: 47,8% và không có nguy cơ dinh dưỡng: 52,2%.
- Năng lượng trung bình khẩu phần: 1537kcal (nam giới: 1617kcal, nữ giới: 1477kcal).
- Tính cân đối của khẩu phần: P : L : G = 13,3 : 11,0 : 75,7
- Có mối liên quan giữa nhóm tuổi và tình trạng năng lượng khẩu phần đến phân loại TTDD theo cả MNA và NRS-2002.
- Không tìm thấy mối liên quan giữa giới tính, dân tộc, trình độ học vấn, sống cùng người than, số lượng bệnh lý mắc phải, sử dụng đồ uống có cồn, hút thuốc lá, thuốc lào và tập luyện thể lực đến phân loại TTDD theo cả MNA và NRS-2002.
Tạp chí Y học Việt Nam
Tạp chí Y học dự phòng
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí Nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí Nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|