Nghiên cứu: “Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của người bệnh ung thư dạ dày trước và sau phẫu thuật tại Bệnh viện K năm 2023” được tiến hành với 02 mục tiêu:
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư dạ dày trước và sau phẫu thuật tại Bệnh viện K năm 2023.
Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh phẫu thuật ung thư dạ dày tại Bệnh viện K năm 2023.
Đối tượng: Người bệnh được chẩn đoán xác định ung thư dạ dày có chỉ định phẫu thuật cắt dạ dày.
PPNC: Nghiên cứu cắt ngang
Kết quả: Nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư dạ dày trước và sau phẫu thuật tại bệnh viện K cho thấy tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn và suy dinh dưỡng (SDD) đều gia tăng sau phẫu thuật, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tình trạng giảm cân và giảm sức mạnh cơ bắp cũng nghiêm trọng hơn sau phẫu thuật, với nhiều người bệnh giảm từ 2,6 kg trở lên. Thời gian nằm viện của người bệnh thiếu năng lượng trường diễn dài hơn so với nhóm còn lại. Các yếu tố như giới tính, bệnh đồng mắc, loại phẫu thuật và triệu chứng nôn/buồn nôn có liên quan đến tình trạng dinh dưỡng xấu của người bệnh.
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh
dưỡng của người bệnh ung thư đại trực tràng trước phẫu thuật.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 105 người bệnh được chẩn đoán xác định
mắc ung thư đại trực tràng đang điều trị tại Khoa Ngoại chung Bệnh viện Vinmec Times
City với thời gian thu thập số liệu từ tháng 12/2023 đến tháng 2/2024. TTDD được đánh
giá theo bộ công cụ PG-SGA và theo phân loại BMI của Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
dành cho người châu Á.
Kết quả: Tỉ lệ suy dinh dưỡng (SDD) theo PG-SGA và theo BMI là 41,0% và 30,5%.
Theo PG-SGA, tăng khả năng bị SDD ở nhóm đối tượng ≥ 60 tuổi so với nhóm < 60 tuổi
(OR= 3,8; p=0,007), mắc ung thư đại tràng so với nhóm mắc ung thư trực tràng (OR=5,9;
p=0,001), ung thư đại trực tràng giai đoạn 3, 4 so với giai đoạn 1, 2 (OR=9,0; p=0,008),
có so với nhóm không hóa, xạ trị trước phẫu thuật (OR=3,1; p=0,042). Theo BMI, tăng
khả năng bị SDD ở nhóm bệnh nhân mắc ung thư đại tràng so với nhóm mắc ung thư
trực tràng (OR=4,3; p=0,010).
Kết luận: Suy dinh dưỡng là vấn đề phổ biến ở người bệnh ung thư trực tràng trước
phẫu thuật. Các yếu tố liên quan đến TTDD của người bệnh ung thư đại trực tràng là
tuổi, loại ung thư, giai đoạn bệnh, hóa xạ trị trước phẫu thuật.
Dinh dưỡng trong từng giai đoạn có những tác động đến sự phát triển của một đứa trẻ từ trong giai đoạn bào thai cho đến khi trưởng thành1. Những giai đoạn quan trọng quyết định đến sự phát triển của mỗi con người là giai đoạn bào thai, trẻ dưới 2 tuổi. Trong giai đoạn này trẻ có nhu cầu rất lớn về dinh dưỡng cần thiết giúp trẻ tăng trưởng phát triển về thể chất và dần hoàn thiện chức năng các cơ quan, bộ phận. Việc nuôi dưỡng trẻ thời kỳ này đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến tương lai của đứa trẻ sau này. Nếu được chăm sóc và nuôi dưỡng đầy đủ thì trẻ sẽ phát triển tốt, ít ốm đau bệnh tật. Ngược lại, nếu trẻ không được nuôi dưỡng hợp lý và đúng cách có thể dẫn đến suy dinh dưỡng (SDD) và nhiều bệnh tật liên quan.
Suy dinh dưỡng không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển tinh thần, trí tuệ và để lại hậu quả nặng nề cho xã hội1. Mọi lứa tuổi đều có nguy cơ suy dinh dưỡng nhưng thường gặp nhất là ở trẻ dưới 5 tuổi, đặc biệt là nhóm trẻ trong giai đoạn dưới 24 tháng tuổi.
Tạp chí Y học Việt Nam
Mục tiêu: Mô tả một số yếu tố liên quan tới kiến thức, thực hành về phòng và phát hiện sớm ung thư vú của phụ nữ ở công ty Cổ phần May 10 năm 2017. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang trên 259 nữ công nhân. Kết quả: Những nữ công nhân đã từng nhận được nguồn thông tin về phòng và phát hiện sớm ung thư vú (UTV) có kiến thức về phòng bệnh và các phương pháp phát hiện sớm UTV cao hơn 5,9 lần so với nhóm không nhận được thông tin (95%CI: 2,9-11,6; p
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nhân viên y tế có kiến thức và thực hành tốt về phòng, chống dịch COVID-19 sẽ góp phần quan trọng vào việc khống chế dịch COVID-19 lây lan. Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá tỉ lệ nhân viên y tế tại Việt Nam có kiến thức và thực hành đúng về phòng, chống dịch COVID-19 và một số yếu tố liên quan, năm 2020. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến hành trên 21.413 nhân viên y tế trực tiếp tham gia phòng, chống dịch COVID-19 tại các cơ sở y tế trên cả nước theo phương pháp ném bóng tuyết. Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ nhân viên y tế có kiến thức và thực hành đúng phòng, chống dịch COVID-19 lần lượt là 84,4% và 71,4%. Nhân viên y tế nữ, trẻ tuổi, có thâm niên công tác ≥ 10 năm và có nguy cơ tiếp xúc với COVID-19 thì có kiến thức về phòng, chống COVID-19 tốt hơn. Nhân viên y tế có thâm niên công tác ≥ 10 năm và có nguy cơ tiếp xúc với COVID-19 thì có thực hành về phòng, chống COVID-19 tốt hơn (p < 0,05)
Tạp chí Nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|