Nghiên cứu với mục đích cung cấp các bằng chứng khoa học về thực trạng tuân thủ điều trị Methadone của người bệnh, từ đó đưa ra kế hoạch triển khai một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều trị, hạn chế việc tái sử dụng ma túy của người bệnh tại Cơ sở điều trị Methadone Kim Thành năm 2023.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 86 người bệnh đang điều trị tại Cơ sở Methadone Kim Thành với thời gian điều trị từ 3 tháng trở lên. Tuân thủ điều trị được đánh giá theo Quyết định 3140/ QĐ- BYT ngày 30/08/2010.
Tỷ lệ người bệnh tuân thủ điều trị là 76,7%. Lý do người bệnh bỏ liều chủ yếu là bận công việc (57,1%), quên (14,2%), bị ốm (11,9%), chưa đóng tiền (9,5%), khó khăn trong đi lại (4,8%), lý do khác chiếm 2,4%. Trong quá trình điều trị, người bệnh nhận được sự hỗ trợ chủ yếu từ người thân trong gia đình (97,7%) và cán bộ y tế (90,7%).
Tỷ lệ tuân thủ điều trị của người bệnh là 76,7%. Để thực hiện tuân thủ điều trị tốt, người bệnh cần có sự hỗ trợ từ nhiều phía, trong đó quan trọng nhất là sự hỗ trợ của người thân trong gia đình và cán bộ y tế.
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Theo thống kê của WHO năm 2019, bệnh đái tháo đường là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ chín với ước tính khoảng 1,5 triệu ca tử vong và 48% tổng số ca tử vong do bệnh đái tháo đường xảy ra trước 70 tuổi. Nghiên cứu: “Tuân thủ điều trị của người bệnh đái tháo đường type 2 được điều trị ngoại trú bằng Metformin tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2022 và một số yếu tố liên quan” được tiến hành với 2 mục tiêu: (1). Mô tả tuân thủ điều trị của người bệnh đái tháo tháo đường type 2 được điều trị ngoại trú bằng Metformin tại bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2022; (2). Phân tích một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị của người bệnh đái tháo đường type 2 được điều trị ngoại trú bằng Metformin tại bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2022. Đây là nghiên cứu cắt ngang có phân tích thực hiện trên 460 người bệnh là người bệnh được chẩn đoán ĐTĐ type 2 được điều trị ngoại trú bằng Metformin tại Phòng khám Đái tháo đường Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc của người bệnh chiếm 61,8%. Các yếu tố có tỷ lệ tuân thủ thấp nhất là: quên uống thuốc (45,43%), cảm thấy bất tiện khi phải tuân thủ thuốc (40,65%).Tuân thủ hoạt động thể lực chiếm 26,7%; hoạt động thể lực nhẹ chiếm chủ yếu là 85%.Tuân thủ chế độ dinh dưỡng chiếm 70,9%; các yếu tố tuân thủ kém nhất là: ăn các thực phẩm ít chất béo (58,7%), giảm lượng thức ăn để giảm cân (33,7%).Tuân thủ kiểm soát đường huyết và khám sức khỏe định kỳ chiếm 12,8%. 17,4% tuân thủ kiểm soát đường huyết ≥ 2 lần/ngày và 74,3% tuân thủ khám định kỳ (≥ 1 lần/tháng).
Tỷ lệ tuân thủ chung của người bệnh là 11,7%. Tuân thủ hoạt động thể lực và tuân thủ kiểm soát đường huyết và khám sức khỏe định kỳ có tỷ lệ tuân thủ thấp nhất.
Các yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị thuốc của người bệnh bao gồm: tuổi, nghề nghiệp, kinh tế hộ gia đình, kiến thức điều trị ĐTĐ, thời gian chờ đợi cho mỗi lần khám và lấy thuốc, thái độ NVYT, mức độ thường xuyên nhận thông tin nhắc nhở tuân thủ, sự hài lòng về hướng dẫn tuân thủ điều trị, thời gian phát hiện và điều trị ĐTĐ, biến chứng ĐTĐ (p<0,05).
Các yếu tố liên quan đến tuân thủ hoạt động thể lực của người bệnh bao gồm: tuổi, giới, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập bình quân đầu người, kinh tế hộ gia đình, thái độ của nhân viên y tế, mức độ thường xuyên nhận thông tin nhắc nhở tuân thủ, mức độ hài lòng về thông tin hướng dẫn tuân thủ điều trị, thời gian phát hiện ĐTĐ, thời gian điều trị ĐTĐ, bệnh lý kèm theo (p<0,05). Các yếu tố liên quan đến tuân thủ chế độ dinh dưỡng của người bệnh bao gồm: trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập, kiến thức điều trị ĐTĐ, thời gian chờ đợi cho mỗi lần khám và lấy thuốc, thái độ NVYT, mức độ thường xuyên nhận thông tin nhắc nhở tuân thủ, thông tin hướng dẫn tuân thủ điều trị, biến chứng ĐTĐ (p<0,05). Các yếu tố liên quan đến tuân thủ tái khám và kiểm soát đường huyết của người bệnh bao gồm: tuổi, giới, trình độ học vấn, thu nhập, kinh tế hộ gia đình, kiến thức điều trị ĐTĐ, thời gian chờ đợi cho mỗi lần khám và lấy thuốc, thái độ NVYT, mức độ thường xuyên nhận thông tin nhắc nhở tuân thủ và mức độ hài lòng về thông tin hướng dẫn tuân thủ điều trị, bệnh lý kèm theo (p<0,05). Từ kết quả trên, tác giả đưa ra một số khuyến nghị: đối với bệnh viện cần cải tiến quy trình khám bệnh, cần tăng cường nhân lực phòng khám đái tháo đường, cần có phòng tư vấn riêng và có nhân viên y tế giữ liên lạc với người bệnh; đối với cán bộ y tế tại phòng khám: cần chú trọng nâng cao kỹ năng mềm; đối với người bệnh và gia đình: người bệnh cần chủ động tìm hiểu những kiến thức về bệnh và chế độ điều trị ĐTĐ type 2, tự ý thức mình trong việc tuân thủ điều trị ĐTĐ.
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Trong những bệnh không truyền nhiễm, đái tháo đường là một bệnh nội tiết chuyển hóa thường gặp nhất và phổ biến nhất trên toàn cầu, là một trong 10 nguyên nhân gây ra gánh nặng tàn tật và tử vong lớn nhất trên toàn cầu.
Nghiên cứu: “Thực trạng tuân thủ điều trị và một số yếu tố liên quan ở cán bộ chiến sĩ Công an đã nghỉ hưu mắc đái tháo đường type 2 được điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Y học cổ truyền Bộ công an, năm 2021” được tiến hành với 2 mục tiêu: (1). Mô tả thực trạng tuân thủ đều trị ở cán bộ chiến sĩ Công an đã nghỉ hưu mắc đái tháo đường type 2 được điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Y học cổ truyền Bộ Công an năm 2021; (2). Phân tích một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị ở cán bộ chiến sĩ Công an đã nghỉ hưu mắc đái tháo đường type 2 được điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Y học cổ truyền Bộ Công an năm 2021. Đây là nghiên cứu cắt ngang có phân tích thực hiện trên 210 người bệnh là cán bộ chiến sĩ công an đã về hưu mắc đái tháo đường type 2 và đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện nhằm đánh giá mức độ tuân thủ điều trị và phân tích một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ tuân thủ được tất cả các khuyến cáo của Bộ y tế và của ADA về điều trị ĐTĐ type 2 là rất thấp chỉ đạt 10% và cụ thể như sau: Tuân thủ chế độ ăn theo khẩu phần cho NB ĐTĐ type 2: 79%; Tuân thủ rèn luyện thể lực: 63,3%; Tuân thủ điều trị thuốc: 78,1%; Tuân thủ thay đổi thói quen hạn chế bia/rượu; không hút thuốc: 63%; Tuân thủ tự theo dõi glucose máu tại nhà: 48,6%; Tuân thủ tái khám đúng lịch hẹn: 81%. Tuân thủ chế độ ăn liên quan có ý nghĩa thống kê với giới, học vấn, mức độ hài lòng về thái độ và trình độ của NVYT, NVYT hướng dẫn chế độ điều trị. Cụ thể: nữ có khả năng tuân thủ gấp 3,37 lần so với nam, trình độ học vấn trên THPT khả năng tuân thủ gấp 7,1 lần; không hài lòng về thái độ và trình độ của NVYT có xu hướng tuân thủ kém, chỉ bằng 0,44 lần; được NVYT hướng dẫn về chế độ điều trị thường xuyên tuân thủ chế độ ăn tốt hơn gấp 4,5 lần. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa đường huyết được kiểm soát với các loại tuân thủ điều trị: tuân thủ thuốc, tuân thủ tự theo dõi đường huyết tại nhà.
Từ kết quả trên, tác giả đưa ra một số khuyến nghị: đối với bệnh viện cần cải tiến quy trình khám bệnh, cần tăng cường nhân lực phòng khám nội tiết và đái tháo đường, cần có phòng tư vấn riêng và có nhân viên y tế giữ liên lạc với người bệnh; đối với cán bộ y tế tại phòng khám: cần chú trọng nâng cao kỹ năng mềm; đối với người bệnh và gia đình: người bệnh cần chủ động tìm hiểu những kiến thức về bệnh và chế độ điều trị ĐTĐ type 2, tự ý thức mình trong việc tuân thủ điều trị ĐTĐ.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|