Đặt vấn đề: Thái độ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết và góp phần dự phòng sa sút trí tuệ (SSTT). Nghiên cứu này được triển khai với mục tiêu mô tả thái độ của người dân về sa sút trí tuệ tại một số tỉnh của Việt Nam và một số yếu tố liên quan năm 2020.
Đối tượng: Người dân trong cộng đồng
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 967 đối tượng tại 8 tỉnh thành đại diện cho 8 vùng sinh thái tại Việt Nam. Sử dụng bộ câu hỏi có cấu trúc và thang đo Likert để đánh giá Thái độ về Sa sút trí tuệ.
Kết quả: Điểm trung bình của tổng thái độ tích cực là 26,55 ± 3,59 (trên 35 điểm) và điểm trung bình của thái độ tiêu cực là 23,83 ± 3,66 (trên 40 điểm). Các yếu tố như tuổi và thu nhập có mối liên quan với thái độ tích cực. Tuổi có liên quan đến Thái độ tiêu cực.
Mục tiêu: Sa sút trí tuệ là một trong những nguyên nhân chính gây tàn tật và phụ thuộc ở người cao tuổi; tuy nhiên tỷ lệ người bệnh mắc sa sút trí tuệ chưa được phát hiện rất cao khoảng 60%. Nghiên cứu này được triển khai với 2 mục tiêu: mô tả rào cản đối việc thăm khám sa sút trí tuệ ở người dân trên 50 tuổi tại một số tỉnh của Việt Nam và phân tích một số yếu tố liên quan.
Đối tượng: Người dân trên 50 tuổi trong cộng đồng
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang cắt ngang, hồi cứu số liệu trên 411 người dân trên 50 tuổi tại 8 tỉnh thành ở Việt Nam. Sử dụng bộ câu hỏi cấu trúc theo thang đo Likert đề tìm hiểu về rào cản thăm khám sa sút trí tuệ.
Kết quả: Tỷ lệ biết về các rào cản thăm khám, phát hiện sa sút trí tuệ ở người dân trên 50 tuổi ở cộng đồng là 27,6%; trong các rào cản được tìm hiểu thì rào cản về kinh tế được người dân biết đến nhiều nhất. Có mối liên quan giữa tôn giáo, học vấn và trải nghiệm với người bệnh sa sút trí tuệ với tỷ lệ gặp rào cản sa sút trí tuệ.
Tạp chí Y học Việt Nam
Đặt vấn đề: Suy dinh dưỡng có liên quan đến tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở người bệnh sa sút trí tuệ (NBSSTT). Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu đánh giá tình trạng dinh dưỡng và phân tích mối tương quan giữa mức độ suy dinh dưỡng và mức độ sa sút trí tuệ của NBSSTT tại bệnh viện Lão khoa Trung Ương năm 2022. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 63 NBSSTT đang điều trị tại Bệnh viện Lão khoa Trung Ương từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2022. Bộ câu hỏi nghiên cứu bao gồm Thang đánh giá trạng thái tâm thần tối thiểu (Mini Mental State Examination-MMSE), Thang đánh giá dinh dưỡng giản lược (Mini Nutrition Assessment-MNA), và các chỉ tiêu nhân trắc học. Kết quả: 47,7% đối tượng mắc sa sút trí tuệ mức độ trung bình và nặng. Cân nặng và tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể trung bình là 55,5±8,9 (kg) và 32,4±7,3 (%). 74,6% NBSSTT có suy dinh dưỡng/nguy cơ suy dinh dưỡng. Điểm MMSE và điểm MNA có mối tương quan thuận với hệ số tương quan r.=0,3 (p
Tạp chí nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|