Mục tiêu
1. Mô tả thực trạng phân loại, thu gom, lưu giữ, giảm thiểu và bàn giao chất thải nhựa tại bệnh viện đa khoa Sơn Tây năm 2022
2. Tìm hiểu một số cơ hội và thách thức cho việc quản lý chất thải nhựa tại Bệnh viện Đa khoa Sơn Tây năm 2022
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang. Nghiên cứu áp dụng phương pháp, hồi cứu hồ sơ, sổ sách, báo cáo về công tác quản lý chất thải nhựa của bệnh viện.
Kết quả: Khối lượng CTN phát sinh tại Bệnh viện Đa khoa Sơn Tây năm 2022 so với tổng lượng chất thải y tế phát sinh tại bệnh viện là 11.168kg (4,54%) bao gồm CTN lây nhiễm 10.320kg (22,8%), CTN nguy hại không lây nhiễm 25kg (14,12%), CTN có khả năng tái chế là tái chế là 823kg bao gồm CTN tái chế từ hoạt động chuyên môn 735kg (28%) và CTN tái chế từ hoạt động sinh hoạt 88kg (0,05%). Khối lượng chất thải tái chế tại BVĐK Sơn Tây năm 2022 là 2714kg bao gồm CTN (823kg) và các chất thải không phải là sản phẩm từ nhựa (1891kg). Trong 823kg CTN tái chế gồm chai dịch truyền 600kg/năm (22,1%), can nhựa 135kg/năm (4,98%) và nhựa sinh hoạt 88kg/năm (3,24%).
Kết luận: Tỉ trọng CTN so với tổng chất thải y tế là đáng kể. Trong các loại CTN phát sinh, CTN lây nhiễm cao nhất, tiếp đến là chất thải nhựa tái chế, CTN nguy hại không lây nhiễm, CTN thông thường. Vì vậy, để hạn chế và giảm thiểu lượng chất thải nhựa phát sinh, BVĐK Sơn Tây cần thực hiện phân loại thu gom, lưu giữ, xử lý đúng quy định về quản lý chất thải y tế. Bên cạnh đó, Bệnh viện nên thực hiện mua sắm các sản phẩm thân thiện với môi trường, cải tiến ứng dụng kỹ thuật vào công tác khám chữa bệnh… để giảm thiểu CTN phát sinh
Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 60 người bệnh điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu – bệnh viện đa khoa Sơn Tây năm 2022 với mục tiêu mô tả tình trạng dinh dưỡng và thực trạng nuôi dưỡng người bệnh. Sử dụng điểm Nutric hiệu chỉnh, NRS 2002, chỉ số khối cơ thể BMI và các chỉ tiêu cận lâm sàng để đánh giá nguy cơ suy dinh dưỡng. Kết quả cho thấy tỷ lệ nguy cơ dinh dưỡng theo thang điểm NRS 2002 là 88,4%; theo BMI có 33,3% người bệnh suy dinh dưỡng và 6,7% thừa cân; theo điểm Nutric hiệu chỉnh thì tỉ lệ nguy cơ suy dinh dưỡng cao là 26,7%. Người bệnh được nuôi dưỡng chủ yếu kết hợp giữa ăn qua ống thông và truyền tĩnh mạch chiếm 38,3%. Tỉ lệ người bệnh được nuôi ăn đường tiêu hóa trong vòng 48 giờ đầu sau nhập viện chiếm 71,7%. Người bệnh điều trị tại khoa ICU có nguy cơ suy dinh dưỡng cao, vì vậy cần sàng lọc, đánh giá và can thiệp dinh dưỡng kịp thời.
|