Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi, kiến thức, thực hành dinh dưỡng của bà mẹ và một số yếu tố liên quan tại một số huyện thuộc tỉnh Kon Tum năm 2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu sử dụng số liệu thứ cấp, đánh giá trên 360 cặp bà mẹ và trẻ dưới 5 tuổi tại 3 huyện Đắk Tô, Kon Plông và Tu Mơ Rông. Nghiên cứu sử dụng phương pháp đánh giá chỉ số nhân trắc và sử dụng bộ câu hỏi về kiến thức, thực hành dinh dưỡng của bà mẹ và các yếu tố kinh tế, xã hội của hộ gia đình. Các yếu tố liên quan thu thập thông qua bộ câu hỏi và đánh giá bằng các phân tích thống kê y học. Kết quả: Tỷ lệ suy dinh dưỡng tại 3 huyện khảo sát ở mức cao về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng, với tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi là 40,3%, tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân là 24,2% và tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm là 2,8%. Các bà mẹ đa phần có kiến thức và thực hành tốt về dinh dưỡng trong giai đoạn mang thai và nuôi con bằng sữa mẹ, nhưng chưa tốt về việc cho trẻ ăn dặm (chưa cho trẻ ăn đủ 5/8 nhóm thực phẩm và cần sử dụng dầu/mỡ trong chế độ ăn). Một số yếu tố liên quan với tình trạng suy dinh dưỡng được xác định bao gồm dân tộc, trình độ học vấn thấp của bà mẹ, gia đình đông con, gia đình gặp tình trạng thiếu lương thực nhiều tháng trong năm, gia đình có khoảng cách xa đến cơ sở y tế và bà mẹ có thực hành chưa tốt về việc cho trẻ ăn dặm. Kết luận: tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi tại các huyện nghiên cứu vẫn ở mức cao về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Chính quyền và các tổ chức liên quan cần chú ý tới các hoạt động giáo dục và hỗ trợ cho các gia đình nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi tại địa phương.
1. Mục tiêu:
- Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi tại xã Bản Vược, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai năm 2023-2024.
- Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi tại xã Bản Vược, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai năm 2023-2024.
2. Đối tượng: Trẻ dưới 5 tuổi thuộc xã Bản Vược, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai và mẹ/người chăm sóc chính của trẻ dưới 5 tuổi
3. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
4, Kết quả chính:
4.1.Tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi tại xã Bản Vược
Tỷ lệ SDD của trẻ em dưới 5 tuổi tại xã Bản Vược, huyện Bát Xát còn khá cao, trong đó tỷ lệ SDD thể thấp còi, nhẹ cân, gày còm và thừa cân-béo phì lần lượt là 24,4%, 13,7%; 3,3%; 2%.
4.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ
- Các yếu tố liên quan đến SDD thể thấp còi: Trẻ có cân nặng sơ sinh thấp, mẹ làm nông nghiệp, kinh tế thuộc hộ nghèo/cận nghèo, bú mẹ sau 1 giờ, cai sữa trước 18 tháng, ăn bổ sung trước 6 tháng, không ăn đa dạng thực phẩm.
- Các yếu tố liên quan đến SDD thể nhẹ cân: cân nặng sơ sinh thấp, mẹ làm nông nghiệp, kinh tế hộ gia đình nghèo/cận nghèo, bú mẹ sau 1 giờ, không ăn đa dạng thực phẩm.
- Các yếu tố liên quan đến SDD thể gày còm: kinh tế hộ gia đình nghèo/cận nghèo.
Mục tiêu cụ thể:
1. Đánh giá hiệu quả sản phẩm hỗ trợ dinh dưỡng đường uống đối với các chỉ số nhân trắc ở trẻ 24-59 tháng tuổi có nguy cơ suy dinh dưỡng gầy còm tại Thái Nguyên.
2. Đánh giá hiệu quả sản phẩm hỗ trợ dinh dưỡng đường uống đối với tình trạng biếng ăn, nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ 24-59 tháng tuổi có nguy cơ suy dinh dưỡng gầy còm tại Thái Nguyên.
Đối tượng nghiên cứu
Trẻ từ 24 tháng đến 59 tháng tuổi tại trường mầm non của địa bàn nghiên cứu.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm can thiệp cộng đồng (thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng và đánh giá trước – sau can thiệp) để kiểm tra giả thuyết về việc sử dụng sản phẩm sữa uống dinh dưỡng đối với cải thiện chỉ số (cân nặng, chiều cao và tình trạng SDD nhẹ cân, gầy còm); cũng như trạng biếng ăn, và nhiễm khuẩn hô hấp ở trẻ 24- 59 tháng tuổi sau 3 tháng can thiệp.
Kết quả nghiên cứu
Sau thời gian nghiên cứu 3 tháng trên 603 trẻ từ 24- 59 tháng tuổi có chỉ số WHZ<-1 cho thấy:
1. Sử dụng sản phẩm dinh dưỡng đường uống cải thiện mức tăng cân nặng, tăng chiều cao và chỉ số nhân trắc dinh dưỡng so với nhóm chứng.
- Trẻ sử dụng sản phẩm dinh dưỡng ở nhóm can thiệp tăng cân nặng, chiều cao khác biệt có YNTK ngay sau 1 tháng can thiệp và tiếp tục duy trì sau 2,3 tháng sau can thiệp so với nhóm chứng (p< 0,001). Số cân nặng trung bình tăng sau 3 tháng là (1,07 ± 0,49 kg)và chiều cao trung bình tăng (2,01 ± 0,63 cm) khác biệt có YNTK so với cân nặng trung bình tăng (0,71 ± 0,46 kg), chiều cao trung bình tăng (1,64 ± 0,55 cm) với p < 0,001 ở nhóm chứng.
- Trẻ sử dụng sản phẩm dinh dưỡng đường uống ở nhóm can thiệp tăng chỉ số Zscore CN/T, Zscore CC/T, Zscore CN/CC (p< 0,001) khác biệt có YNTK ngay sau 1 tháng can thiệp và tiếp tục duy trì sau 2 và 3 tháng sau can thiệp so với nhóm chứng. Sau 3 tháng can thiệp thay đổi Zscore CN/T 0,33 ± 0,27; Zscore CC/T (0,02 ± 0,16); Zscore CN/CC 0,48 ± 0,38) cao hơn có YNTK so với nhóm chứng sự thay đổi chỉ số Zscore CN/T (0,14±0,27); Zscore CC/T (-0,06±0,13); Zscore CN/CC (0,28±0,43) với p< 0,001.
- Sử dụng sản phẩm dinh dưỡng đường uống ở nhóm can thiệp tỷ lệ SDD và nguy cơ SDD gầy còm giảm khác biệt có YNTK ngay sau 1 tháng can thiệp và tiếp tục duy trì sau 2 và 3 tháng sau can thiệp so với nhóm chứng (p< 0,01) Sau 3 tháng can thiệp tỷ lệ SDD và nguy cơ SDD gầy còm giảm từ 42,2 % xuống còn 15,1% cải thiện có YNTK so với nhóm chứng tương ứng 40,7% xuống 25,9% sau can thiệp với p< 0,01.
2.Sử dụng sản phẩm dinh dưỡng đường uống cải thiện tình trạng biếng ăn và nhiễm khuẩn hô hấp trên.
- Cải thiện tình trạng biếng ăn: Sau 3 tháng can thiệp các triệu chứng liên quan đến biếng ăn như tỷ lệ trẻ bỏ thừa thức ăn bữa chính, biểu hiện sợ ăn/ từ chối ăn/ ngậm lâu, biểu hiện không ăn hết ½ số thức ăn ở nhóm can thiệp đều giảm có YNTK so với nhóm chứng (p< 0,05). Tình trạng biếng ăn từ 66,8% xuống còn 47,2% ở nhóm can thiệp đã giảm khác biệt có YNTK so với nhóm chứng từ 72,8 % xuống 57,9% (p < 0,01)
- Cải thiện tình trạng nhiễm khuẩn hô hấp: Tỷ lệ trẻ bị ho, sốt, sổ mũi giữa nhóm chứng không có sự khác biệt có YNTK so với nhóm can thiệp (c2-test, p>0,05). Tỷ lệ trẻ bị sổ mũi nhóm can thiệp giảm từ 53,8% giai đoạn T0 xuống là 46,2% khác biệt có YNTK (Mc Nemar- test, p <0,01). Tương tụ tỷ lệ trẻ bị sốt nhóm can thiệp và nhóm chứng giảm thời điểm 3 tháng so với ban đầu khác biệt có ý nghĩa thống kê (Mc Nemar- test, p <0,01).
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|