Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả thực trạng công tác quan trắc môi trường lao động tại Bệnh viện đa khoa huyện Mê Linh năm 2023.
2. Phân tích một số khó khăn, thách thức trong công tác quan trắc môi trường lao động tại Bệnh viện đa khoa huyện Mê Linh năm 2023 và đề xuất giải pháp.
Đối tượng nghiên cứu bao gồm:
Người phụ trách công tác quan trắc môi trường lao động
Báo cáo quan trắc môi trường lao động
Hồ sơ vệ sinh lao động
Phương pháp nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu là mô tả cắt ngang, kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng.
Kết quả chính:
Bệnh viện có thực hiện quan trắc môi trường lao động với tần suất 1 lần/năm, các kết quả quan trắc môi trường lao động đều nằm trong giới hạn cho phép tuy nhiên chưa thực hiện quan trắc đầy đủ các yếu tố có hại như: Formaldehyde, bức xạ tử ngoại (UV), thực hiện đánh giá tâm sinh lý lao động và Ec-gô-nô-my (mới được 01/03 nhóm yếu tố theo quy định), chưa thực hiện đánh giá tiếp xúc nghề nghiệp.
Bệnh viện chưa thực hiện việc công khai kết quả quan trắc môi trường lao động cũng như chưa thực hiện công tác báo cáo với các đơn vị chức năng theo quy định
1. Mục tiêu nghiên cứu: 1- Mô tả thực trạng môi trường lao động và ô nhiễm tiếng ồn ở một Công ty sản xuất linh kiện điện tử tại tỉnh Hà Nam, năm 2023. 2- Xác định thực trạng sức khỏe và giảm thính lực do tiếng ồn ở người lao động Công ty sản xuất linh kiện điện tử tại tỉnh Hà Nam năm 2023
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 1: Đo đạc, khảo sát các yếu tố môi trường lao động
Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 2: Người lao động lao động trực tiếp trong các line sản xuất của công ty.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện theo thiết kế mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: Mẫu phỏng vấn, khám sức khỏe, đo thính lực: Chọn mẫu toàn bộ người lao động trực tiếp tham gia sản xuất (n=195). Mẫu tiếng ồn: Chọn đại diện cho 8 line sản xuất và khu vực hành chính bao gồm 34 mẫu ồn chung, 9 mẫu ồn phân tích giải tần.
4. Kết quả:
Có 26,5% số mẫu đo tiếng ồn không đạt TCCP
Phân tích giải tần các mẫu đo tiếng ồn vượt TCCP, các giải tần vượt giới hạn cho phép là giải tần tần số cao (tần số công nghiệp) tần số 2000 Hz: 02 mẫu vượt TCCP; tần số 4000Hz: 05 mẫu vượt TCCP); tần số 8000 Hz 05 mẫu vượt TCCP.
79% người lao động làm việc trong môi trường có tiếng ồn cao; 52,8% người lao động làm việc trong môi trường tiếng ồn ngắt quãng.
Có 23,1% (45/195) người lao động làm việc trong môi trường ồn giảm thính lực, trong đó tỷ lệ giảm thính lực 2 tai là 19,5%.
Tỷ lệ giảm thính lực cao nhất ở NLĐ có độ tuổi 30-39 (41,1%)
Tỷ lệ giảm thính lực tăng theo thâm niên nghề nghiệp. NLĐ có tuổi nghề >= 5 năm có tỷ lệ giảm thính lực cao nhất (33.0%).
NLĐ làm việc trong điều kiện môi trường tiếng ồn cao/ngắt quãng có nguy cơ giảm thính lực cao hơn NLĐ làm việc trong ĐK tiếng ồn không cao/ không ngắt quãng.
NLĐ có tần suất sử dụng nút tai không thường xuyên/hiếm khi có nguy cơ giảm thính lực cao hơn so với NLĐ sử dụng nút tai thường xuyên và rất thường xuyên.
Toàn bộ người lao động bị giảm thính lực đều ở mức độ nhẹ (ngưỡng nghe 21-40dB); không có người lao động giảm thính lực mức độ vừa và nặng.
Mục tiêu: Mô tả thực trạng môi trường lao động và sức khỏe tâm thần của người lao động khai thác than hầm lò tại Công ty Than Mạo Khê và Công ty cổ phần Than Vàng Danh năm 2022 – 2023. Phân tích một số yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần của người lao động khai thác than hầm lò tại Công ty Than Mạo Khê và Công ty cổ phần Than Vàng Danh năm 2022 – 2023.
Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 180 người lao động khai thác than hầm lò thuộc 02 công ty khai thác than ở Quảng Ninh. Công cụ nghiên cứu là test lo âu Zung và test trầm cảm Beck được sử dụng và đánh giá.
Kết quả: Tỷ lệ số mẫu không đạt TCCP ở các yếu tố: vi khí hậu, tiếng ồn, độ rung, nồng đội bụi than ở mức cao. Giá trị trung bình các yếu tố này vượt TCCP, đặc biệt bụi than vượt TCCP hàng chục lần. Có 15% đối tượng nghiên cứu có các vấn đề về sức khỏe tâm thần, trong đó có 7 người (3,9%) có rối loạn lo âu và 10 người (5,56%) có trầm cảm, 10 người (5,56%) có cả 2 vấn đề về sức khỏe tâm thần là lo âu và trầm cảm. 8,88% (16 người) có rối loạn lo âu mức độ nhẹ; có 1 người rối loạn lo âu mức độ nặng. Trong số các đối tượng có trầm cảm có 15 người (8,33%) trầm cảm mức độ nhẹ; 2 đối tượng trầm cảm mức độ vừa và 3 đối tượng có trầm cảm mức độ nặng qua khảo sát bằng test Beck. Kết quả phân tích cho thấy một số yếu tố có liên quan đến sức khỏe tâm thần ở người lao động: tuổi nghề, không hài lòng về thu nhập, không hài lòng về công việc, sử dụng rượu bia, cảm nhận MTLĐ rất nhiều bụi, thừa ánh sáng, thiếu ánh sáng, cảm nhận chung MTLĐ xấu.
Kết luận: Cần có những nghiên cứu lớn về thực trạng sức khỏe tâm thần người lao động khai thác than hầm lò để xác định đối tượng nguy cơ, yếu tố liên quan để có biện pháp can thiệp sớm hiệu quả.
Mục tiêu: nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng điều kiện môi trường lao động, sức khỏe, bệnh tật của người lao động tại một công ty may ở Thanh Hóa năm 2022. Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên hai nhóm mẫu là điều kiện môi trường lao động và 460 người lao động làm việc trong một công ty may tại Thanh Hóa năm 2022 để đánh giá điều kiện môi trường lao động tại và tình trạng sức khỏe bệnh tật của công nhân tại cơ sở này. Kết quả: Hầu hết các vị trí làm việc tại công ty đều có các yếu tố trong môi trường lao động như vi khí hậu, ánh sáng, tiếng ồn, nồng độ bụi nằm trong giới hạn cho phép, chỉ có 28,6% vị trí làm việc tại khu vực may có tiếng ồn vượt giới hạn cho phép. Đối tượng nghiên cứu có tỷ lệ mắc các bệnh về mắt là nhiều nhất, tiếp đến các bệnh về tai mũi họng, răng hàm mặt, sản phụ khoa, tim mạch, tiêu hóa,… Nhóm bệnh về tiết niệu, cơ xương khớp chiếm tỷ lệ thấp. Triệu chứng hay gặp nhất sau giờ làm của NLĐ là đau đầu (58,5%), sau đó là triệu chứng đau vùng dạ dày, mệt mỏi. Người lao động có sức khỏe loại I và II chiếm 88,1%, loại III và IV chiếm 11,9 %.
Tạp chí Y học Quân sự
Nguyễn Ngọc Anh, Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Phạm Thị Quân, Nguyễn Quốc Doanh, Phan Thị Mai Hương, Tạ Thị Kim Nhung, Khương Văn Duy, Lê Thị Hương, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền
Tạp chí Y học dự phòng
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Phạm Thị Quân, Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Ngọc Anh, Lê Thị Hương, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Liên Hương, Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Thanh Thảo, Nguyễn Quốc Doanh, Phan Thị Mai Hương, Tạ Thị Kim Nhung, Khương Văn Duy
Tạp chí Y học dự phòng
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|