Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thực hành về phòng chống đuối nước của học sinh Trường trung học cơ sở Phạm Hồng Thái, xã Thạch Đà, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, năm 2023.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 828 học sinh từ khối 6 đến khối 9 đang theo học tại trường trung học cơ sở Phạm Hồng Thái từ tháng 9/2023 đến tháng 4/2024.
Kết quả: Tỷ lệ học sinh tại trường Trung học sơ sở Phạm Hồng Thái, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội có kiến thức tốt về phòng chống đuối nước là 52,7%. Tỷ lệ học sinh có thực hành tốt về phòng chống đuối nước là 34,7%. Có 47,5% học sinh biết bơi, trong đó có 44,7% học sinh thực hành tốt an toàn khi bơi. Khi gặp tình huống nguy hiểm dưới nước, 86,2% học sinh thực hành tốt kỹ năng tự cứu đuối. Tỷ lệ 50,2% học sinh thực hành tốt đảm bảo an toàn khi di chuyển bằng đường thuỷ. Tỷ lệ học sinh thực hành tốt cứu nạn nhân đuối nước và sơ cấp cứu nạn nhân đuối nước lần lượt là 57,5% và 44,3%.
Kết luận: Thực trạng kiến thức và thực hành phòng chống đuối nước ở lứa tuổi học sinh trung học sơ cở còn thấp. Các chương trình can thiệp về giảng dạy kỹ năng bơi lội và các kỹ năng tự cứu đuối, cứu nạn nhân đuối nước và sơ cấp cứu đuối nước cần được triển khai trong các chương trình sức khoẻ học đường.
Mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm và tỷ lệ tiêm chủng vắc xin trong chương trình Tiêm chủng mở rộng của học sinh lớp một năm học 2023-2024 tại thành phố Gia Nghĩa và huyện Đăk Glong, tỉnh Đăk Nông
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến tiêm đủ mũi vắc xin trong chương trình Tiêm chủng mở rộng của các đối tượng nghiên cứu trên.
Đối tượng: Hồ sơ tiêm chủng của học sinh lớp 1 năm học 2023-2024 tại thành phố Gia Nghĩa và huyện Đăk Glong, tỉnh Đăk Nông và người chăm sóc, cán bộ y tế
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang định lượng kết hợp định tính, hồi cứu số liệu tiền sử tiêm chủng và điều tra dựa trên biểu mẫu, kết hợp phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm. Sử dụng phân tích mô tả, hồi quy logistic đơn biến và đa biến, biểu đồ Kaplan-Meier trong phân tích survival analysis.
Kết quả chính: Còn khoảng trống trong bao phủ vắc xin ở thời điểm vào lớp 1 tại Đăk Nông. Tỷ lệ tiêm đủ mũi thấp (44,7%) nhưng có sự chênh lệch rõ rệt giữa tỷ lệ tiêm chủng tại TP. Gia Nghĩa (50,8%) cao hơn Đăk Glong (38,5%). Còn tỷ lệ đáng kể học sinh không nhận được một liều vắc xin nào trước khi đi học (7,7%), bao gồm cả mũi vắc xin phòng bệnh lao, tỷ lệ zero-dose cũng cao với tỷ lệ chung khoảng 9%. Quá trình tiêm chủng bù liều kéo dài hơn 4 năm mới đạt được tỷ lệ tiêm chủng hiện tại. Tiêm vắc xin phòng bệnh lao tạo động lực thúc đẩy việc tiêm các vắc xin phòng bệnh khác. Cả 3 nhóm yếu tố nhân khẩu học và kinh tế - xã hội, khả năng tiếp cận và quản lý đối tượng, thái độ và niềm tin với tiêm chủng đều có ảnh hưởng đến tiêm đủ mũi Các yếu tố có tác động tiêu cực mạnh mẽ đến khả năng tiêm chủng đủ mũi là không được quản lý trên Hệ thống NIIS, dân tộc, tôn giáo, số con, địa điểm sinh sống, cảm thấy “rất không cần thiết” phải tiêm chủng hoặc “cảm thấy do dự” khi tiêm chủng. Còn đối tượng khó tiếp cận và khó tiêm vắc xin (Dân tộc H’Mông) và địa bàn sinh sống không phải là yếu tố nguy cơ dẫn đến tình trạng không được tiêm đủ mũi trong mô hình đa biến. Có sự phân hoá các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến tiêm đủ mũi trên 2 địa bàn, trong khi Đăk Glong nổi bật lên với các yếu tố về nhân khẩu học và xã hội như dân tộc H’Mông (OR 2,11 (1,24-3,58)) và số con 0-10 tuổi hiện tại >3 (OR 2,10 (1,02-4,30)), Gia Nghĩa lại nổi bật với những yếu tố về kinh tế như đi làm xa 1-2 tuần/ tháng (OR 8,6 (1,07-69,58) và hệ thống TCDV (aOR 3,82 (1,22-11,95)).
Mục tiêu: Thanh thiếu niên có đầy đủ kiến thức về sức khoẻ sinh sản vị thành niên có thể giảm nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục cũng như mang thai ngoài ý muốn. Nghiên cứu nhằm mô tả kiến thức, thái độ của học sinh trung học phổ thông về sức khoẻ sinh sản vị thành niên.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 420 học sinh tại trường trung học phổ thông Quỳnh Lưu 2, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An năm 2022.
Kết quả: Kết quả cho thấy học sinh có kiến thức đạt là 39%, thái độ tích cực là 96%. Tỷ lệ học sinh cho biết rằng QHTD lần đầu có thể khiến phụ nữ mang thai là 57,6%, tỷ lệ học sinh hiểu rằng phụ nữ có khả năng mang thai cao nhất ở giữa chu kỳ kinh nguyệt là rất thấp, chỉ có 4,8%. Có 75% học sinh tham gia nghiên cứu biết ít nhất một BPTT. Trong đó, BCS là BPTT được học sinh biết đến nhiều nhất (65,5%). Tỷ lệ học sinh cho biết rằng họ đã nghe TDAT an toàn là 81,4%. Tuy nhiên, trong số 342 học sinh đã nghe về TDAT chỉ có 43,8% hiểu đúng về TDAT. Tỷ lệ học sinh đã từng nghe về lạm dụng tình dục là 61,4%. Các yếu tố liên quan kiến thức của học sinh về SKSS VTN gồm: Môi trường sống, có phòng riêng, thứ tự con trong gia đình. Yếu tố liên quan đến thái độ của học sinh về SKSS VTN gồm: Môi trường sống và số anh chị em trong gia đình.
Kết luận: Kiến thức về sức khoẻ sinh sản vị thành niên của học sinh của trường trung học phổ thông Quỳnh Lưu 2 chưa cao. Việc nâng cao kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản một cách hiệu quả và kịp thời là rất cần thiết, giúp học sinh tự chăm sóc bản thân và phát triển toàn diện.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 1000 học sinh từ 11 đến 14 tuổi nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng (TTDD) của học sinh tại 2 trường trung học cơ sở (THCS) thành phố Hà Nội năm 2021-2022. Sử dụng phương pháp nhân trắc đánh giá TTDD theo chỉ số Z-Score chiều cao và BMI theo tuổi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) thấp còi và gầy còm lần lượt là 1,2% và 0,7% thấp hơn hẳn kết quả tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc năm 2019-2020; tuy nhiên tỷ lệ thừa cân béo phì (TC-BP) lại cao hơn hẳn với 38,4% trong đó thừa cân là 49,2% và béo phì 27,5%. Trường THCS Giảng Võ có tỷ lệ SDD thấp hơn và tỷ lệ thừa cân, béo phì lại cao hơn so với trường THCS Thạch Bàn. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ SDD gầy còm cũng như tỷ lệ thừa cân béo phì theo giới tính, theo trường và theo độ tuổi của học sinh (p<0,05). Do vậy, cần tăng cường truyền thông giáo dục dinh dưỡng và hướng dẫn xây dựng khẩu phần ăn hợp lý trong các trường học nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho học sinh lứa tuổi này.
Tạp chí Y học Việt Nam
Tạp chí Y học Việt Nam
Mục tiêu: 1) Xác định tỷ lệ thừa cân (TC), béo phì (BP) ở học sinh lớp 5 trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2021. 2) Mô tả kiến thức về TC, BP ở học sinh lớp 5 trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Học sinh lớp 5 tại trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương; nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Chỉ số BMI trung bình của trẻ nam và trẻ nữ lần lượt là 19,0 ± 4,7 kg/m2 và 19,2 ± 3,9 kg/m2 , tỷ lệ trẻ bị thừa cân, béo phì là 27,2%. Tỷ lệ trẻ có kiến thức về khái niệm thừa cân, béo phì tốt đạt là 59,6%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về nguyên nhân thừa cân, béo phì tốt đạt là 57,2%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về tác hại của thừa cân, béo phì tốt đạt là 58,0%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về cách phòng chống thừa cân, béo phì tốt đạt là 57,6%. Kết luận: Nguy cơ thừa cân, béo phì tăng gấp 9,5 lần (95%CI: 4,73-19,03) ở trẻ có kiến thức chung về thừa cân, béo phì chưa tốt. Việc giáo dục cho trẻ có được kiến thức cơ bản tốt để có được nhận thức và hành vi đúng đắn nhằm mục đích phòng chống thừa cân, béo phì là vô cùng cần thiết
Tạp chí Y học Việt Nam
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ stress, lo âu, trầm cảm của học sinh trung học phổ thông huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng thang đánh giá trầm cảm, lo âu và stress DASS-21 cho 482 học sinh trung học phổ thông tại huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Kết quả: tỷ lệ rối loạn stress, lo âu, trầm cảm lần lượt là 41,7%, 49,0%, 43,6%, chủ yếu ở mức độ nhẹ và trung bình. Có khoảng 1/3 số trẻ đã từng nghĩ đến tự làm đau bản thân và 10% trẻ đã tự làm đau bản thân. 25% số trẻ đã từng nghĩ đến tự tử và 1,4% số trẻ đã thực hiện tự tử nhưng không thành công. Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy căng thẳng, lo âu và trầm cảm ở học sinh trung học ở vùng bán đô thị là một vấn đề cấp bách cần được quan tâm. Nhu cầu cấp thiết cần thiết lập hệ thống hướng dẫn cho học sinh trung học các kỹ năng đối phó với căng thẳng và tiếp cận các dịch vụ tư vấn và điều trị khi có vấn đề về sức khỏe tâm thần.
Mục tiêu: 1) Xác định tỷ lệ thừa cân (TC), béo phì (BP) ở học sinh lớp 5 trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2021. 2) Mô tả kiến thức về TC, BP ở học sinh lớp 5 trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Học sinh lớp 5 tại trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương; nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Chỉ số BMI trung bình của trẻ nam và trẻ nữ lần lượt là 19,0 ± 4,7 kg/m2 và 19,2 ± 3,9 kg/m2, tỷ lệ trẻ bị thừa cân, béo phì là 27,2%. Tỷ lệ trẻ có kiến thức về khái niệm thừa cân, béo phì tốt đạt là 59,6%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về nguyên nhân thừa cân, béo phì tốt đạt là 57,2%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về tác hại của thừa cân, béo phì tốt đạt là 58,0%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về cách phòng chống thừa cân, béo phì tốt đạt là 57,6%. Kết luận: Nguy cơ thừa cân, béo phì tăng gấp 9,5 lần (95%CI: 4,73-19,03) ở trẻ có kiến thức chung về thừa cân, béo phì chưa tốt. Việc giáo dục cho trẻ có được kiến thức cơ bản tốt để có được nhận thức và hành vi đúng đắn nhằm mục đích phòng chống thừa cân, béo phì là vô cùng cần thiết.
Tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần của học sinh tiểu học ở ba tỉnh miền
Bắc năm 2020” được tiến hành với các mục tiêu sau:
1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần của học sinh tiểu học ở
ba tỉnh miền Bắc năm 2020.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của học sinh
tiểu học năm 2020
Tình trạng dinh dưỡng (TTDD) của học sinh tiểu học hiện nay còn chưa được nghiên cứu nhiều. Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành trên 487 học sinh tiểu học từ 6-10 tuổi tại tỉnh Điện Biên, Hà Nam, Thái Nguyên năm 2020 nhằm khảo sát TTDD của trẻ. Học sinh được xác định cân nặng, chiều cao để tính chỉ số Z-score. Kết quả: Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể gầy còm, thấp còi và TC-BP ở 3 tỉnh lần lượt là 5,5%, 15,6% và 24,2%. Học sinh nam có tỷ lệ bị TC-BP cao hơn có ý nghĩa thống kê so với học sinh nữ (p<0,01). So với học sinh nam, học sinh nữ có gia tăng cân nặng và chiều cao vượt trội ở thời điểm 8 tuổi. Kết luận: Học sinh tiểu học ở 3 tỉnh miền Bắc đang đối mặt với gánh nặng kép về dinh dưỡng. Học sinh nữ từ thời điểm 8 tuổi cần được chăm sóc và nuôi dưỡng hợp lý để phát triển được tối đa tiềm năng về tầm vóc cũng như hạn chế các nguy cơ của SDD và TC-BP ở giai đoạn phát triển tiếp theo.
Học sinh lứa tuổi tiểu học từ 6-11 tuổi thuộc giai đoạn tiền dậy thì, ở giai đoạn này trẻ có tốc độ tăng trưởng nhanh về cả thể lực, tầm vóc và trí tuệ và cũng là giai đoạn cần thiết để chuẩn bị cho sự phát triển nhảy vọt trong giai đoạn dậy thì sau đó. Nếu trong giai đoạn này trẻ bị thừa cân hay béo phì (TC-BP) hoặc suy dinh dưỡng (SDD) sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến khả năng học tập, sinh hoạt, sáng tạo, gây tổn thất lớn về kinh tế, gia đình và xã hội.1 Bên cạnh đó tình trạng dinh dưỡng của trẻ ở giai đoạn này cũng là một trong các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả học tập của trẻ.2,3 Trẻ bị suy dinh dưỡng thấp còi đầu tiên sẽ gây ảnh hưởng tới thể chất và chiều cao khi trưởng thành, ở phụ nữ sẽ gây hậu quả xấu tới sức khỏe sinh sản. Thừa cân béo phì cũng là vấn đề gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của trẻ, là mối đe dọa lâu dài đến sức khỏe, tuổi thọ và là nguy cơ xuất hiện béo phì ở tuổi trưởng thành, tăng nguy cơ đối với các bệnh mạn tính không lây như tăng huyết áp, bệnh mạch vành, đái tháo đường… và một số bệnh ung thư. Béo phì còn dẫn tới tăng trưởng sớm, dễ dẫn đến những ảnh hưởng nặng nề về tâm lý ở trẻ như tự ti, nhút nhát, kém hòa đồng, giảm kết quả học tập.4
Việt Nam là một trong những quốc gia có nền kinh tế đang phát triển kéo theo đó có rất nhiều sự thay đổi về cả đời sống và tinh thần của người dân, một trong những thay đổi đó là “gánh nặng kép” về mặt dinh dưỡng.5 Theo kết quả khảo sát tình hình dinh dưỡng khu vực Đông Nam Á từ năm 2010-2012 cho thấy: Ở Việt Nam tỉ lệ SDD thấp còi ở lứa tuổi 5-10 tuổi là 26,7% và có tới 29% trẻ trong tình trạng TC-BP ở thành thị, 5% là ở nông thôn6. Tỉ lệ SDD thấp còi ở trẻ em tuổi học đường (5 - 19 tuổi) năm 2020 còn 14,8% (năm 2010 là 23,4%). Tỉ lệ TC-BP của trẻ 5-19 tuổi tăng từ 8,5% năm 2010 lên thành 19,0% năm 2020.7 Tỉ lệ SDD hay TC-BP ở trẻ có sự khác biệt rất rõ rệt giữa các khu vực thành thị và nông thôn, năm 2011 tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi là 8,9% và 17,7% cho khu vực thành thị và nông thôn.6 Tỉ lệ SDD thể nhẹ cân ở trẻ 5 –10 tuổi giảm từ 24,2% xuống còn 13,8% và 25,0% cho khu vực thành thị và nông thôn.6 Tỉ lệ SDD thể gầy còm ở học sinh tiểu học năm 2009 là 16,8%, đến năm 2011 tỉ lệ này là 9,6% và 13,7% cho khu vực thành thị và nông thôn. Năm 2000, kết quả điều tra tại các thành phố lớn cho thấy tỉ lệ TC-BP ở học sinh tiểu học tại Hà Nội là 10% và Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) là 12%8 đến năm 2009 tỉ lệ này 8,5% ở trẻ 5-10, trong đó trẻ béo phì 18,3% và miền núi là 6,9%.7 Hầu hết các nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng của học sinh tiểu học được thực hiện tại các tỉnh, thành phố lớn hoặc các vùng miền núi. Trong khi đó huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình là một địa phương vùng nông thôn, có địa hình phức tạp bao gồm cả vùng núi và đồng bằng, nền kinh tế ở mức trung bình và tình trạng dinh dưỡng của học sinh đặc biệt là học sinh từ 6-8 tuổi ở đây vẫn chưa được quan tâm. Câu hỏi đặt ra là hiện nay tình trạng dinh dưỡng, tần suất tiêu thụ thực phẩm của học sinh từ 6-8 tuổi ở huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình như thế nào? Có thể có các yểu tố nào ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của học sinh 6-8 tuổi ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình? Để trả lời cho những câu hỏi này chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “ Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan ở học sinh từ 6-8 tuổi tại một số xã thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình năm 2020”.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả tình trạng dinh dưỡng, tần suất tiêu thụ thực phẩm của học sinh từ 6-8 tuổi tại một số xã của huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình năm 2020.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan tới tình trạng dinh dưỡng ở học sinh từ 6-8 tuổi tại một số xã huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình năm 2020.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện năm 2020-2021 nhằm mô tả tình trạng dinh dưỡng, thói quen ăn uống và hoạt động thể lực của 2452 học sinh từ 11-14 tuổi tại 6 trường THCS thuộc hai quận nội thành Hà Nội. Số liệu được thu thập bằng phương pháp cân đo trực tiếp tại trường học.
Kết quả cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi của học sinh là 0,9%, gầy còm là 2,7%. Tỷ lệ thừa cân là 25,2%, giảm dần theo tuổi từ 11-14 tuổi lần lượt là 28,4%; 27,9%; 20,9%;17,8% (p<0,05). Tỷ lệ thừa cân ở trẻ nam cao hơn ở trẻ nữ (28% và 22,1%) với p<0,05. Không có sự khác biệt về tỷ lệ thừa cân giữa quận Ba Đình và quận Long Biên (26,1% và 24,3% với p>0,05). Tỷ lệ béo phì là 13,2% cũng giảm dần theo tuổi từ 11-14 lần lượt là 21%;13,1%;7,7%;7,3% với p<0,05; ở trẻ nam cao hơn ở trẻ nữ (19,9% và 5,6%) với p<0,05; Có sự khác biệt về tỷ lệ béo phì giữa 2 quận, quận Ba Đình cao hơn quận Long biên (15,7% và 10,6%) với p<0,05. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng thừa cân, béo phì như độ tuổi, giới tính, địa điểm (p<0,05)..
Một số thói quen ăn uống của học sinh: 67,8% ăn 3 bữa trên ngày; 81,8% thường xuyên ăn sáng; 54,8% luôn luôn và thường xuyên cho mắm muối vào đồ ăn; từ 51,7% đến 73,5% có thói quen giúp giảm lượng muối ăn; 46,7% ăn quà vặt ngoài cổng trường.
Tần suất tiêu thụ một số thực phẩm trong 30 ngày qua của học sinh: Tần suất tiêu thụ một số thực phẩm ≥ 1 lần trên ngày khá cao như: 39,2% với nước ngọt có ga/nước ngọt đóng chai; 12,7% với bia, rượu đồ uống có cồn; 18,1% với các loại phủ tạng động vật; 30,4% với mỳ ăn liền; 34,1% với đồ ngọt. Trong khi với các loại rau củ là 79,7%, các loại quả chín là 77%.
Tỷ lệ học sinh HĐTL đủ theo hướng dẫn tiêu chuẩn của WHO (≥60 phút/ngày, tất cả các ngày trong tuần) là 39,4%. Trong khi đó, có tới 60,6 % học sinh thiếu HĐTL theo hướng dẫn. Trong những học sinh thiếu HĐTL ở học sinh nữ cao hơn ở học sinh nam lần lượt là 44,2% và 38,3%(p<0,05); giảm dần độ tuổi từ 11-14. Thời gian hoạt động tĩnh trong ngày >3 giờ là 39%; ≤3 giờ là 61%; không có sự khác biệt về thời gian ngủ ở học sinh nam và học sinh nữ. Thời gian ngủ đêm trên ngày học sinh ngủ nhỏ hơn 8 giờ chiếm 46,4%; ¬¬¬từ 8-10 giờ là 50,7%; lớn hơn 10 giờ là 2,9%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa HĐTL, thời gian hoạt động tĩnh, thời gian ngủ tối với tình trạng TC, BP của học sinh.
Tạp chí Y Dược học
Tạp chí Y Dược học
Tạp chí nghiên cứu Y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Y học Thành phố Hồ Chí Minh
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí Y học dự phòng
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Y học Thành phố Hồ Chí Minh
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí Y học Cộng đồng
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|