Việc cải thiện tỷ lệ tiêm vaccine cho trẻ em là rất quan trọng để ngăn ngừa hậu quả lâu dài của các ca nhiễm COVID-19 nhất là với xuất hiện của các biến thể COVID-19 kháng thuốc, và đặc biệt là ở những nơi khan hiếm nguồn lực. Nghiên cứu này xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự chấp nhận và sẵn sàng chi trả đối với tiêm vaccine COVID-19 cho trẻ em ở những người có chuyên môn y tế và cộng đồng.
Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2022 trên một bộ câu hỏi trực tuyến có sử dụng phương pháp lựa chọn rời rạc (DCE). Cuối cùng có 891 người (86% người tham gia nghiên cứu) từ nhiều vùng miền khác nhau của Việt Nam đã được đưa vào phân tích.
Kết quả cho thấy, hầu hết những người tham gia nghiên cứu đều đồng ý tiêm vaccine cho tất cả trẻ em, trong đó những người có chuyên môn về y tế là 76,2% và ở nhóm cộng đồng là 69,3%. Các nhân viên y tế là nguồn thông tin chính về vaccine (70,7%). Các tùy chọn chi trả 50% và chi trả toàn bộ chiếm các tỷ lệ lớn nhất lần lượt là 28,3% và 26,6%.
Tình trạng có con hoặc mang thai làm giảm sự chấp nhận trong khi sự hài lòng về dịch vụ y tế làm tăng sự chấp nhận. Mối quan tâm về đặc điểm của vaccine làm giảm sự chấp nhận ở những người có chuyên môn về tế và cộng đồng. Gánh nặng chi phí y tế trong quá khứ có tương quan tiêu cực với ý định chi trả cho vaccine, trong khi sự hài lòng về dịch vụ y tế có tương quan tích cực mức chi trả.
Sự mâu thuẫn đáng kể giữa mức độ chấp nhận cao và mức độ sẵn sàng chi trả thấp nhấn mạnh vai trò của thông tin về vaccine và niềm tin của người dân đối với sự an toàn của vaccine. Để xây dựng một chương trình tiêm chủng hiệu quả cho trẻ em tại Việt Nam, cần cung cấp thông tin chính xác và đáp ứng các dịch vụ tiêm chủng, chủ yếu thông qua các nhân viên y tế có hiểu biết và chuyên nghiệp, có thể cải thiện ý định tiêm chủng và chi trả cho vaccine COVID-19.
Nghiên cứu cắt ngang nhằm 2 mục tiêu: 1. Mô tả thực trạng tiếp xúc nghề nghiệp của nhân viên y tế tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương năm 2023; 2. Phân tích tình trạng sức khỏe, bệnh tật của nhân viên y tế và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương năm 2023. Tổng có 293 nhân viên y tế bộ tại bệnh viện Nhiệt đới Trung ương tham gia nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỉ lệ nhân viên y tế ở khoa lâm sàng thường xuyên tiếp xúc với máu và chất tiết của người bệnh cũng như có nguy cơ tổn thương do vật sắc nhọn cao hơn so với ở khoa cận lâm sàng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Ngoài ra, 15,0% nhân viên đã được chẩn đoán theo dõi bệnh nghề nghiệp. Điều này cho thấy cần phải cải thiện điều kiện lao động và luôn trang bị đầy đủ các phương tiện bảo vệ cá nhân cũng như đào tạo, kiểm tra, đánh giá cách sử dụng chúng, đặc biệt là tại các khu vực nguy cơ lây nhiễm bệnh cao.
Đặt vấn đề: Nhân viên y tế (NYT) có nguy cơ lây nhiễm cao trong phòng chống dịch COVID-19. Sự hỗ trợ NVYT về đào tạo, phương tiện phòng hộ cá nhân (PTPHCN) và khi mắc COVID-19 là cần thiết trong giai đoạn này. Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang là ba tỉnh thành xuất hiện dịch COVID-19 sớm, diễn biến phức tạp.
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định tỷ lệ mắc bệnh và sự hỗ trợ NVYT ở ba địa phương khi chống dịch COVID-19 năm 2022.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, dữ liệu được thu thập vào 2022 tại 33 cơ sở y tế (CYST) hệ điều trị và dự phòng tuyến tỉnh, huyện, xã. Chọn chủ đích các CSYT, chọn ngẫu nhiên y sĩ, bác sĩ, điều dưỡng chống dịch ở các CSYT được chọn, phỏng vấn trực tiếp bằng bảng hỏi về tình trạng mắc COVID-19 và những sự hỗ trợ được nhận trong thời gian chống dịch. Phương pháp thống kê mô tả, kiểm định Chi bình phương được sử dụng.
Kết quả: Tổng số NVYT tham gia khảo sát tại ba tỉnh là 418 (Hà Nội: 218; Bắc Ninh: 100; Bắc Giang: 100) với tỉ lệ mắc COVID-19 chung là 69,9% (p<0,01). Tỉ lệ mắc ở Hà Nội là 78%, Bắc Ninh là 64%, Bắc Giang là 58%. Trong những NVYT mắc COVID-19 (n=292), 56,2% thuộc độ tuổi 30-39, 68,2% là nữ, 97,6% tiếp xúc người mắc Covid-10 dưới 2m, 86,6% tiếp xúc người mắc Covid/nghi ngờ mắc tại gia đình, 78,1% mắc khi chống dịch tại cơ quan, 53,1% trực tiếp chăm sóc bệnh nhân F0, 86,6% được cung cấp đồ bảo hộ. Trong tổng số NVYT được khảo sát, 86,4% được cấp găng tay y tế, 84,9% được cấp tấm che mặt, 84,9% được cấp áo bảo hộ, 80,1% được cấp khẩu trang y tế, 73,2% được cấp các PTPHCN trên; 56,2% được tập huấn về tiêm chủng COVID-19 an toàn, 55,0% được tập huấn về chăm sóc người bệnh COVID-19 mức độ vừa và nhẹ, 49,5% được tập huấn sử dụng PTPHCN, 49% được tập huấn chẩn đoán điều trị. Trong tổng số mắc COVID-19, 28,8% được hỗ trợ vật chất, 23,3% được điều trị tại nơi làm việc và 6,2% được điều trị tại bệnh viện COVID-19.
Kết luận: Tỉ lệ mắc COVID-19 ở NVYT năm 2022 ở Hà Nội là 78%, Bắc Ninh là 64%, Bắc Giang là 58%, tỷ lệ mắc chung 69,9%. NVYT được hỗ trợ chủ yếu về các PTPHCN. Cần có phương án sẵn sàng nguồn lực để ứng phó có hiệu quả khi có đại dịch.
1. Mục tiêu của nghiên cứu:
- Mô tả Thực trạng về nhân lực y tế tuyến xã tham gia phòng chống COVID-19 tại một số tỉnh trọng điểm trong năm 2021.
- Mô tả một số yếu tố liên quan đến mức độ lo lắng và hài lòng khi tham gia chống dịch COVID-19 của nhóm đối tượng trên.
2. Đối tượng nghiên cứu: Cán bộ Trạm Y tế xã/phường/thị trấn.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang.
3.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Đối tượng: Cán bộ Trạm Y tế xã/phường/thị trấn của 07 tỉnh/thành phố trọng điểm: Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nghệ An, Đắc Lắc, Bình Dương, Kiên Giang.
- Phương pháp thu thập thông tin: Phỏng vấn bộ câu hỏi
- Cỡ mẫu và chọn mẫu: nghiên cứu này được sử dụng dữ liệu thứ cấp từ đề tài khoa học cấp Bộ Y tế “Đánh giá và dự báo nguồn nhân lực y tế ứng phó có hiệu quả với COVID-19 ở Việt Nam” của Trường Đại học Y Hà Nội với chủ nhiệm đề tài là PGS.TS Lê Minh Giang được thực hiện ở 07 tỉnh/thành phố và 03 trường đại học trong cả nước.
- Áp dụng phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn với các bước như sau:
+ Bước 1: Chọn tỉnh. Chọn chủ đích 07 tỉnh trọng điểm về tình hình chống dịch năm 2021 trong cả nước: Bình Dương, Kiên Giang, Đắk Lắk, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Nghệ An.
+ Bước 2: Chọn huyện. Tại mỗi tỉnh chọn ngẫu nhiên 2 quận/huyện. Tại mỗi quận/huyện, chọn chủ đích Trung tâm y tế quận/huyện và Bệnh viên đa khoa huyện để tiến hành nghiên cứu.
- Tại mỗi TYT tuyến xã chọn ngẫu nhiên 05 nhân viên y tế tham gia vào nghiên cứu. Tổng 210 trường hợp tham gia vào nghiên cứu.
4. Kết quả
4.1. Thực trạng công tác phòng chống dịch COVID-19 ở tuyến xã tại một số tỉnh trọng điểm trong năm 2021
Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu tại tuyến xã được tập huấn về kiến thức, chẩn đoán, phân loại, xử trí, điều trị bệnh COVID-19 và phòng hộ cá nhân trước khi tham gia chống dịch năm 2021 chiếm tỷ lệ cao nhưng tỷ lệ đối tượng nghiên cứu được tập huấn lại chiếm tỷ lệ khá thấp vào năm 2022. Nhiệm vụ chính của nhân viên y tế tuyến xã chủ yếu liên quan đến lĩnh vực dự phòng. Trong quá trình tham gia chống dịch mức độ lo lắng nhiễm COVID-19 của nhân viên y tế trong năm 2021 chiếm tỷ lệ cao, sự lo lắng đã giảm dần vào năm 2022. Đa số nhân viên y tế đã được chẩn đoán mắc COVID-19 (99,4%), 96,3% nhân viên y tế mắc COVID-19 có triệu chứng, 35,8% có triệu chứng COVID-19 kéo dài, đa số nhân viên y tế đã được tiêm phòng vắc xin COVID-19 (56,7% đã được tiêm 02 mũi vắc xin).
4.2. Một số yếu tố liên quan đến mức độ lo lắng và hài lòng khi tham gia chống dịch COVID-19 của nhóm đối tượng trên.
Có sự liên quan giữa mức độ lo lắng với sự lo lắng về một số nội dung trong khi tham gia chống dịch giữa các nhóm tuổi. Có sự khác biệt giữa tỷ lệ lo lắng ở ĐTNC theo giới nữ cao hơn nam giới. Tỷ lệ lo lắng của ĐTNC nữ về khả năng bị nhiễm COVID-19, phơi nhiễm với các trường hợp bị COVID-19 mà không biết, dịch bệnh COVID-19 không được kiểm soát cao hơn khoảng 4 lần so với nam giới.
Có sự liên quan giữa mức độ hài lòng khi tham gia chống dịch giữa các nhóm tuổi. Mức độ hải lòng về hỗ trợ tài chính sau khi tham gia chống dịch và mức độ quan tâm/hỗ trợ của cơ quan địa phương nơi đến chống dịch ở ĐTNC nữ cao hơn ở nam.
I. Mục tiêu đề tài:
1. Mô tả tác động của đại dịch COVID-19 lên sức khoẻ tâm thần và áp lực công việc của nhân viên y tế tại Trung tâm Y tế huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2022.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến tác động của đại dịch COVID-19 lên sức khoẻ tâm thần và áp lực công việc của nhân viên y tế tại Trung tâm Y tế huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2022.
II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
1. Đối tượng: Nhân viên y tế đang làm việc tại Trung tâm Y tế huyện Bình Giang và 16 Trạm Y tế xã/thị trấn trên địa bàn huyện Bình Giang.
2. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu mô tả cắt ngang
- Chọn mẫu toàn bộ
III. Kết quả
1. Tác động của đại dịch Covid - 19 lên sức khoẻ tâm thần của nhân viên y tế tại Trung tâm Y tế huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2022: Kết quả nghiên cứu cho thấy 29,4% đối tượng có vấn đề sức khoẻ tâm thần được quan tâm, 2,7% được chẩn đoán có tình trạng căng thẳng, 1,4% có sức khoẻ tâm thần ảnh hưởng lâu dài trong nhiều năm. Điểm trung bình của “Sự ám ảnh” về COVID-19 là cao nhất (9,02±3,49), tiếp theo là “Sự lảng tránh” (6,43±3,51) và “Phản ứng thái quá” (5,23±3,07). Các nhân viên y tế là nam giới, điều dưỡng, làm việc tại Trung tâm Y tế cơ sở 1 (Khối điều trị), có bệnh nền, sống cùng với gia đình, trang bị bảo hộ mức độ trung bình hoặc thiếu hụt thì có nguy cơ bị các vấn đề sức khoẻ tâm thần cao hơn các đối tượng khác.
2. Tác động của đại dịch Covid - 19 áp lực công việc của nhân viên y tế tại Trung tâm Y tế huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2022: 67,2% đối tượng có áp lực công việc ở mức độ trung bình, 3,4% NVYT có áp lực công việc ở mức độ cao. Điểm trung bình của “Kiệt sức tinh thần” là cao nhất (2,05±1,35), tiếp theo là “Thái độ tiêu cực” (1,46±1,15) và “Thành tích cá nhân” (3,83±1,30). Các nhân viên y tế là nữ giới, trực COVID-19, tuổi nghề >20 năm, cung cấp trang bị bảo hộ mức độ thiếu hụt thì có nguy cơ bị áp lực công việc cao hơn các đối tượng khác.
Một nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 329 nhân viên y tế trên địa bàn thị xã Nghĩa Lộ năm 2022 nhằm xác định tỷ lệ và phân tích một số yếu tố liên quan đến ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến sức khỏe tâm thần và hậu COVID-19 ở nhân viên y tế. Kết quả cho thấy 33,4% nhân viên y tế có các vấn đề sức khỏe tâm thần trong đó: 2,8% có vấn đề sức khỏe tâm thần cần quan tâm; 3,3% chẩn đoán có căng thẳng; 17,3% bị ảnh hưởng trầm trọng bởi tình trạng căng thẳng. Có 85,7% nhân viên y tế mắc COVID-19, trong đó tỷ lệ tái nhiễm là 17,7%. Có 69,6% nhân viên y tế có các triệu chứng hậu COVID-19. Các triệu chứng hậu COVID-19 phổ biến là gặp vấn đề về nhận thức (trí nhớ, khả năng tập trung:42,3%); mệt mỏi (41,2%); gặp khó khăn trong giấc ngủ (38,8%); đau cơ, đau khớp (36,9%); ho (35%); đau đầu (33,0%); rụng tóc (26,9%). Các yếu tố dân tộc, mức độ bệnh khi mắc COVID-19, trình độ chuyên môn, nhóm tuổi nghề có mối liên quan đến các vấn đề sức khỏe tâm thần ở nhân viên y tế. Các yếu tố giới tính nữ, mức độ bệnh khi mắc COVID-19, sử dụng thuốc kháng vi rút, vị trí công tác có mối liên quan đến hậu COVID-19 ở nhân viên y tế.
Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định tỷ lệ nhân viên Y tế mắc COVID-19 khi tham gia phòng chống dịch tại 07 tỉnh/thành năm 2021 – 2022 và các yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 62,6% (383/612) nhân viên Y tế từng được chẩn đoán mắc COVID-19 trong thời gian trực tiếp tham gia phòng chống dịch năm 2021 – 2022. Phần lớn nhân viên Y tế mắc COVID-19 trong bối cảnh tham gia chống dịch tại cơ quan đang công tác (75,8% ở năm 2021 và và 85,5% ở năm 2022). Tỷ lệ tiêm vắc xin phòng COVID-19 nói chung ở NVYT đạt mức cao và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm NVYT đã tiêm ≤ 2, 3 hay 4 mũi vắc-xin phòng COVID-19 (p<0,05). Kết quả phân tích đa biến cho thấy NVYT tham gia trực tiếp điều trị bệnh nhân COVID-19 tại bệnh viện, tái sử dụng PPE, trực tiếp điều trị BN COVID-19 ở cộng đồng, lấy mẫu COVID-19 ở cộng đồng, triển khai tiêm vắc xin COVID-19, hỗ trợ tiêm vắc xin COVID-19 có liên quan đến tỷ lệ mắc COVID-19 ở NVYT. Việc xác định tỷ lệ nhiễm COVID-19 trong nhân viên Y tế cũng như xác định một số yếu tố liên quan là một phần quan trọng để có biện pháp can thiệp nhằm giảm nhẹ hậu quả đối với sức khỏe của nhân viên Y tế trong đại dịch COVID-19.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phỏng vấn 151 nhân viên y tế nhằm mô tả sự hài lòng với công việc của nhân viên y tế tại Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Bình năm 2022 và một số yếu tố liên quan .
Kết quả: Nhân viên y tế tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Bình hài lòng với công việc năm 2022 đạt 77,3%; điểm trung bình 4,1. Nhân viên y tế hài lòng với 4/5 nhóm yếu tố bao gồm: “Môi trường làm việc” (74%; 4,0 điểm), “Lãnh đạo trực tiếp, đồng nghiệp” (88,2%; 4,3 điểm), “Công việc, cơ hội học tập, thăng tiến” (78,8%; 4,1 điểm), “Hài lòng chung về Trung tâm” (84,6%; 4,3 điểm). Nhân viên y tế không hài lòng về yếu tố “Quy chế nội bộ, tiền lương, phúc lợi” (66,6%; 3,9 điểm). Nghiên cứu tìm thấy có mối liên quan giữa thâm niên công tác và thu nhập bình quân hàng tháng và sự hài lòng với công việc của nhân viên y tế. Không tìm thấy có mối liên quan giữa các yếu tố giới tính, tuổi, chuyên môn chính, trình độ học vấn và sự hài lòng với công việc của nhân viên y tế tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Bình.
Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành và phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về dự phòng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe của nhân viên y tế tuyến cơ sở huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An năm 2022
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
Kết quả: Có 55,6% nhân viên y tế có kiến thức đạt về dự phòng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe. Trong đó, có 24,5% nhân viên y tế có kiến thức đúng về biểu hiện của biến đổi khí hậu, 22,1% nhân viên y tế có kiến thức đúng về nguyên nhân của biến đổi khí hậu. Có 51,4% nhân viên y tế có thái độ đạt trong việc dự phòng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe. Tỷ lệ nhân viên y tế thực hành về dự phòng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe thấp 34,4%. Nhóm nhân viên y tế không đạt về kiến thức có nguy cơ không đạt về thái độ cao hơn gấp 2,05 lần so với nhóm nhân viên y tế có kiến thức đạt (OR = 2,05, p = 0,001). Nhóm nhân viên y tế không đạt về thái độ có nguy cơ không đạt về thực hành cao hơn gấp 4,77 lần so với nhóm nhân viên y tế có thái độ đạt (OR = 4,77, p <0,001).
Mục tiêu: Đánh giá có hệ thống này điều tra các biện pháp can thiệp bằng âm nhạc được sử dụng trên thế giới để cải thiện tình trạng sức khoẻ tinh thần của Nhân viên y tế.
Nguồn dữ liệu: Pubmed
Tiêu chí bao gồm và loại trừ nghiên cứu: Các bài báo toàn văn bằng tiếng Anh đã được công bố tính đến 03/2024 nếu nghiên cứu đánh giá việc sử dụng can thiệp âm nhạc để cải thiện sức khoẻ tinh thần trên đối tượng Nhân viên y tế .
Trích xuất dữ liệu: Dữ liệu được trích xuất bằng bảng tính Excel, trích xuất độc lập các đặc điểm nghiên cứu, tần suất và loại tương tác âm nhạc, các biện pháp về tình trạng kiệt sức và kết quả của tình trạng kiệt sức (căng thẳng nghề nghiệp, ứng phó với căng thẳng và các triệu chứng liên quan như lo lắng).
Tổng hợp dữ liệu: Dữ liệu nghiên cứu và kết quả đã được tóm tắt, đánh giá chất lượng các nghiên cứu đưa vào tổng quan hệ thống bằng Thang điểm GRADE (Grading of Recommendations, Assessment, Development and Evaluation).
Kết quả: Sau khi tìm kiếm được 178 nghiên cứu, đọc toàn văn đưa 14 nghiên cứu vào tổng quan hệ thống trong đó có 2 nghiên cứu cắt ngang, 5 nghiên cứu thuần tập và 7 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng. Các nghiên cứu cắt ngang báo cáo về việc nhân viên y tế tự lựa chọn biện pháp đối phó với căng thẳng cá nhân là nghe nhạc, trong đó các hoạt động tập thể có tác dụng gắn kết và xây dựng môi trường làm việc lành mạnh nhưng không có tác dụng cải thiện triệu chứng cá nhân. Các nghiên cứu thuần tập và thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng báo cáo về phương pháp can thiệp âm nhạc được sử dụng là Gõ ứng tấu, Sáng tác, Nghe nhạc tác động lên 2 nhóm triệu chứng chính: trầm cảm, lo âu và căng thẳng.
Kết luận: Can thiệp bằng nghe nhạc chủ động và nghe nhạc kết hợp với 1 biện pháp khác (massage, thư giãn, thiền, Yoga,..) với nhịp độ 60-80 nhịp/phút có tác dụng giảm triệu chứng lo âu, trầm cảm và căng thẳng ở Nhân viên y tế.
Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Nguyễn Ngọc Anh, Phạm Thị Quân, Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Quốc Doanh, Tạ Thị Kim Nhung, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Thị Liên Hương, Nguyễn Thị Quỳnh
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện nhằm mô tả tính sẵn sàng ứng phó với COVID-19 của nhân viên y tế Việt Nam năm 2021. Nghiên cứu được thực hiện trên 1603 đối tượng tại một số cơ sở y tế tại Việt Nam từ tháng 5/2021 đến tháng 5/2022. Kết quả cho thấy hầu hết đối tượng nghiên cứu tự tin và sẵn sàng tham gia phòng chống COVID-19 (lần lượt là 97,9% và 93,4%). Đa số nhân viên y tế mong muốn được hỗ trợ về trang thiết bị bảo hộ cá nhân (82,2%), tài chính (70,4%) và đào tạo chuyên môn (64,1%). Trực phòng chống COVID-19, được đào tạo về chăm sóc, điều trị và dự phòng COVID-19 là những yếu tố liên quan đến tính sẵn sàng ứng phó của nhân viên y tế với COVID-19.
Nguyễn Ngọc Anh, Định Thị Lam, Trần Thị Phương Thảo, Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Phạm Thị Quân, Tạ Thị Kim Nhung, Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Quốc Doanh, Nguyễn Thị Loan, Nguyễn Thị Quỳnh
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả thực trạng công việc và khả năng sẵn sàng ứng phó với dịch COVID-19 của nhân viên y tế. Nghiên cứu được tiến hành trên 225 nhân viên y tế làm việc tại Bệnh viện Đống Đa, Hà Nội có tuổi nghề tối thiểu 2 năm, thời gian nghiên cứ từ tháng 5/2021 đến tháng 5/2022. Kết quả cho thấy phần lớn đối tượng phải làm thêm giờ (56%), tăng khối lượng công việc (55,1%), căng thẳng khi làm việc (56,4%), hầu hết đối tượng tham gia nghiên cứu sẵn sàng và tự tin tham gia chăm sóc và điều trị bệnh nhân COVID-19 (lần lượt là: 92,0% và 93,3%) và đa số mong muốn được hỗ trợ trang thiết bị bảo hộ cá nhân (85,3%), tài chính (84,0%) và chuyên môn (76,4%).
Tạp chí Y học cộng đồng
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến thái độ về an toàn người bệnh (ATNB) của nhân viên y tế (NVYT) tại BVĐK tỉnh Ninh Bình, năm 2021. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 343 NVYT được lựa chọn ngẫu nhiên, hiện đang làm việc trong BVĐK tỉnh Ninh Bình, từ tháng 11/2021 – 12/2021. Nghiên cứu sử dụng bộ thang đo SAQ phiên bản rút gọn năm 2006 của Đại học Texas được Việt hoá để đo lường thái độ ATNB. Nghiên cứ sử dụng OR, 95% CI để xác định mối liên quan giữa thái độ ATNB và một số yếu tố liên quan. Kết quả: NVYT có tỷ lệ và điểm trung bình về thái độ ATNB cao nhất ở mục mục “Sự hài lòng công việc” (75,8%, 4,0 ± 0,6) và điều kiện làm việc (62,97%, 3,8 ± 0,6). Các NVYT có trình độ chuyên môn là sau đại học có điểm thái độ ATNB cao hơn gấp 6,8 lần (95% CI: 1,8 - 25,6) so với các đối tượng có trình độ chuyên môn là Đại học. Ngoài ra, NVYT tuyển dụng hợp đồng có thái độ ATNB cao hơn gấp 3,6 lần (95% CI: 1,4 - 9,2) so với NVYT thuộc biên chế. Kết luận: Nghiên cứu đã chỉ ra Bệnh viện nên đào tạo liên tục để củng cố thái độ ATNB của NVYT, nhất là nhóm biên chế và có trình độ đại học
Tạp chí Y học Việt Nam
Một nghiên cứu cắt ngang nhằm đánh giá tác động của đại dịch Covid 19 đối với sức khỏe tâm thần của nhân viên y tế vào năm 2021. Nghiên cứu nhằm phân tích các yếu tố liên quan đến tác động của Covid-19 đối với sức khỏe tâm thần của nhân viên y tế. Phỏng vấn trực tiếp được thực hiện để thu thập dữ liệu từ 470 đối tượng là nhân viên y tế tại các bệnh viện khác nhau trên địa bàn Hà Nội. Tác động của Thang đo sự kiện - Đã sửa đổi được sử dụng để phân tích tác động của đại dịch COVID 19 đến sức khỏe tâm thần của nhân viên y tế trong thời gian nghiên cứu. Kết quả của cuộc nghiên cứu cho thấy 9,8% đối tượng đang có
vấn đề về tâm thần cần được quan tâm, trong khi
23,2% nhân viên y tế đang bị tâm thần lâu dài và
1,5% tổng số bệnh nhân được chẩn đoán là bị căng
thẳng. Điểm trung bình của “Phản ứng thái quá” đối
với Covid-19 là cao nhất (12,5 ± 9,1), tiếp theo là
“Lảng tránh” (5,0 ± 4,8) và “Chênh vênh” (4,1 ± 4 ,
1). Nhân viên y tế là nữ tiếp xúc trực tiếp với bệnh
nhân, nữ nhân viên y tế có trình độ học vấn thấp, tiếp
xúc trực tiếp với bệnh nhân và các nhân viên khác và
làm việc nhiều giờ, có nguy cơ bị các vấn đề tâm thần
cao hơn những người khác. Tiêm phòng sẽ giúp giảm
nguy cơ mắc các vấn đề tâm thần đó
Nguyễn Quốc Doanh, Dương Thị Thu Trà, Nguyễn Hương Giang, Vũ Kim Duy, Nguyễn Thanh Thảo, Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Ngọc Anh, Phạm Thị Quân, Tạ Thị Kim Nhung, Nguyễn Thị Quỳnh, Nguyễn Thị Liên Hương
Tạp chí Y học Việt Nam
Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của đại dịch COVID-19 đối với sức khỏe tâm thần của nhân viên y tế dự phòng. Nghiên cứu cắt ngang sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn trực tiếp và thang đo tác động quy mô sự kiện(IES-R) trên 455 nhân viên y tế từ các trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) ở 4 tỉnh trong đại dịch COVID-19 vào năm 2021. Kết quả nghiên cứu cho thấy 45,93% đối tượng có vấn đề sức khỏe tâm thần cần được quan tâm, 8,8% có ảnh hưởng sức khỏe tâm thần lâu dài trong nhiều năm, và 2,8% được chẩn đoán mắc trạng thái căng thẳng. Điểm trung bình của “Ám ảnh” về COVID 19 là cao nhất (11,34 ± 6,67), tiếp theo là “Tránh” (7,35 ± 5,79) và “Phản ứng thái quá” (6,86 ± 5,20). Cán bộ, nhân viên y tế làm việc tại khoa phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm thường tránh mắc bệnh hơn các nhân viên làm công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm. Nhân viên nữ có nguy cơ bị ám ảnh, né tránh và mắc bệnh thái quá cao hơn nam giới.
Nguyễn Thị Quỳnh, Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Nguyễn Ngọc Anh, Phạm Thị Quân, Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Quốc Doanh, Tạ Thị Kim Nhung, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Thị Liên Hương
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện nhằm mô tả tác động của đại dịch COVID-19 đến sức khỏe tâm thần của cán bộ y tế một số tỉnh thành Việt Nam năm 2021. Số liệu được thu thập bằng phỏng vấn theo bộ câu hỏi trên 1603 cán bộ y tế tại Hà Nội, Thái Bình, Đà Nẵng và Quảng Nam. Kết quả cho thấy hầu hết đối tượng nghiên cứu phơi nhiễm với COVID-19 hàng ngày (83,5%) và đã được đào tạo về COVID-19 trong năm 2021 (95,8%). 27,3% đối tượng nghiên cứu có rối loạn về sức khỏe tâm thần, trong đó cao nhất là Đà Nẵng (34,9%), tiếp đến là Hà Nội (28,9%), Quảng Nam (22,6%) và Thái Bình (22,2%). Giới nữ, độ tuổi từ 40 đến 49 và phơi nhiễm với COVID-19 hàng ngày là những yếu tố làm tăng tỷ lệ rối loạn sức khỏe tâm thần ở nhân viên y tế
Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Nguyễn Ngọc Anh, Phạm Thị Quân, Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Quốc Doanh, Tạ Thị Kim Nhung, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Thị Liên Hương, Nguyễn Thị Quỳnh
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện nhằm phân tích một số yếu tố liên quan đến rối loạn sức khỏe tâm thần do đại dịch COVID-19 của cán bộ y tế năm 2021. Nghiên cứu được tiến hành trên 1603 nhân viên y tế tại Hà Nội, Thái Bình, Đà Nẵng và Quảng Nam. Phân tích nhân tố được áp dụng để xác định 3 lĩnh vực: sự ám ảnh, lảng tránh và phản ứng thái quá. Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng điểm về sức khỏe tâm thần là 23,1 ± 16,05. Điểm trung bình của sự ám ảnh, sự lảng tránh và phản ứng thái quá lần lượt là 10,2 ± 6,39; 7,03 ± 5,88 và 5,9 ± 4,97. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tổng điểm và điểm về sự lảng tránh giữa các tỉnh nghiên cứu trong đó cao nhất ở Hà Nội, rồi đến Đà Nẵng, Quảng Nam và thấp nhất ở Thái Bình (p < 0,05). Một số yếu tố như giới tính, tuổi đời, có sống một mình không và nguy cơ phơi nhiễm với COVID-19 có liên quan đến sức khỏe tâm thần của nhân viên y tế trong đại dịch COVID-19
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nhân viên y tế có kiến thức và thực hành tốt về phòng, chống dịch COVID-19 sẽ góp phần quan trọng vào việc khống chế dịch COVID-19 lây lan. Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá tỉ lệ nhân viên y tế tại Việt Nam có kiến thức và thực hành đúng về phòng, chống dịch COVID-19 và một số yếu tố liên quan, năm 2020. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến hành trên 21.413 nhân viên y tế trực tiếp tham gia phòng, chống dịch COVID-19 tại các cơ sở y tế trên cả nước theo phương pháp ném bóng tuyết. Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ nhân viên y tế có kiến thức và thực hành đúng phòng, chống dịch COVID-19 lần lượt là 84,4% và 71,4%. Nhân viên y tế nữ, trẻ tuổi, có thâm niên công tác ≥ 10 năm và có nguy cơ tiếp xúc với COVID-19 thì có kiến thức về phòng, chống COVID-19 tốt hơn. Nhân viên y tế có thâm niên công tác ≥ 10 năm và có nguy cơ tiếp xúc với COVID-19 thì có thực hành về phòng, chống COVID-19 tốt hơn (p < 0,05)
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến thái độ về an toàn người bệnh (ATNB) của nhân viên y tế (NVYT) tại BVĐK Tỉnh Ninh Bình, năm 2021.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 343 NVYT được lựa chọn ngẫu nhiên, hiện đang làm việc trong BVĐK tỉnh Ninh Bình, từ tháng 11/2021 – 12/2021. Nghiên cứu sử dụng bộ thang đo SAQ phiên bản rút gọn năm 2006 của Đại học Texas được Việt hoá để đo lường thái độ ATNB. Nghiên cứ sử dụng OR, 95% CI để xác định mối liên quan giữa thái độ ATNB và một số yếu tố liên quan.
Kết quả: NVYT có tỷ lệ và điểm trung bình về thái độ ATNB cao nhất ở mục mục “Sự hài long công việc” (75,8%, 4,0 ± 0,6) và điều kiện làm việc (62,97%, 3,8 ± 0,6). Các NVYT có trình độ chuyên môn là sau đại học có điểm thái độ ATNB cao hơn gấp 6,8 lần (95% CI: 1,8 - 25,6) so với các đối tượng có trình độ chuyên môn là Đại học. Ngoài ra, NVYT tuyển dụng hợp động có thái độ ATNB cao hơn gấp 3,6 lần (95% CI: 1,4 - 9,2) so với NVYT thuộc biên chế.
Kết luận: Nghiên cứu đã chỉ ra Bệnh viện nên đào tạo liên tục để củng cố thái độ ATNB của NVYT, nhất là nhóm biên chế và có trình độ đại học.
|