Mục tiêu sau:
1. Xác định nồng độ kháng thể gắn kết và tỷ lệ mắc bệnh COVID-19 sau khi tiêm vắc xin AstraZeneca và Pfizer ở người 60 tuổi trở lên tại một số điểm tiêm chủng năm 2021-2022.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến nồng độ kháng thể gắn kết và tỷ lệ mắc bệnh COVID-19 sau khi tiêm vắc xin AstraZeneca và Pfizer ở nhóm đối tượng trên.
- Đối tượng: Người dân từ 60 tuổi trở lên tham gia tiêm chủng vắc xin phòng bệnh COVID-19 tại các điểm tiêm chủng thuộc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Viện dưỡng lão ALH, xã Xuân Quan và Thắng Lợi thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
- Thiết kế nghiên cứu: thuần tập tiến cứu
- Kết quả:
+ Kết quả định lượng kháng thể sau khi tiêm chủng vắc xin AstraZeneca và Pfizer ở các nhóm đối tượng nghiên cứu cho thấy cả hai loại vắc xin này đều có khả năng sinh kháng thể kháng vi rút SARS-CoV-2.
+ Nồng độ kháng thể đạt đỉnh sau tiêm vắc xin mũi thứ hai 14 ngày, giảm dần đến thời điểm trước khi tiêm mũi thứ ba và sau đó tiếp tục tăng sau liều thứ ba 3 tháng.
+ Có 12,7% đối tượng nghiên cứu nhiễm SARS-CoV-2 sau khi tiêm mũi 2 vắc xin.
+ Đối với nhóm đối tượng được tiêm vắc xin AstraZeneca thì nữ giới có nồng độ kháng thể cao hơn nam giới, đối với nhóm đối tượng được tiêm vắc xin Pfizer không có sự khác biệt nồng độ kháng thể giữa các nhóm giới tính, tuổi và bệnh lí kèm theo.
+ Nhóm đối tượng nghiên cứu có tình trạng bệnh mạn tính kèm theo có tỷ lệ nhiễm SARS-CoV-2 sau tiêm chủng cao hơn đối tượng không có bệnh mạn tính.
Mục tiêu của nghiên cứu:
1. Mô tả thực trạng về nhân lực y tế tuyến huyện tham gia điều trị và chăm sóc bệnh nhân COVID-19 tại một số tỉnh năm 2021
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến mức độ lo lắng và hài lòng của nhóm đối tượng nghiên cứu trên
Đối tượng: Nhân viên y tế tham gia điều trị và chăm sóc bệnh nhân Covid 19 tại các Trung tâm y tế/bệnh viện quận/huyện ở 7 tỉnh/thành phố Bắc Ninh, Hà Nội, Bắc Giang, Nghệ An, Đắc Lắc, Bình Dương, Kiên Giang năm 2021
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang
Kết quả chính:
1. Thực trạng nhân lực y tế tham gia phòng chống dịch COVID-19 năm 2021
94,7% ĐTNC đều chống dịch tại cơ quan công tác. Tỷ lệ nhân viên y tế tuyến huyện được tập huấn các kiến thức về bệnh COVID-19 và phòng hộ cá nhân trước khi tham gia chống dịch chiếm tỷ lệ cao.
Nhiệm vụ chủ yếu của ĐTNC khi tham gia chống dich là trực tiếp chăm sóc BN F0. Vì vậy mức độ lo lắng có thể bị phơi nhiễm hoặc nhiễm bệnh là hơn 70%.
Khả năng cung cấp hỗ trợ của địa phương với các trang bị phòng hộ các nhân đếu đạt trên 90%. Hầu như các nhân viên y tế đều không phải sử dụng lại các đồ dùng trong quá trình chống dịch.
73,0% ĐTNC đã mắc COVID-19, bối cảnh mắc là khi tham gia chống dịch với các triệu chứng thường gặp là ho, mệt mỏi, đau họng. 95,9% ĐTNC đã được tiêm đủ ít nhất 2 mũi vắc xin COVID-19.
2. Một số yếu tố liên quan mức độ lo lắng và hài lòng của nhân viên y tế tuyến huyện tham gia điều trị và chăm sóc bệnh nhân COVID-19 tại một số tỉnh năm 2021
- Mức độ nản chí vì kết quả công việc có liên quan đến giới tính, thời gian tiếp xúc
- Cảm thấy cô đơn khi xa cách người thân có liên quan đến giới tính, chức danh nghề nghiệp
- Mức độ lo lắng có thể bị nhiễm/phơi nhiễm có liên quan đến chức danh nghề nghiệp, thời gian tiếp xúc
- Mức độ lo lắng dịch bệnh không được kiểm soát có liên quan đến chức danh nghề nghiệp, thâm niên công tác vị trí hiện tại, thời gian tham gia chống dịch
- Yếu tố thời gian tiếp xúc (p = 0,006) có mối liên quan dương với với điểm số lo lắng chung; khi thời gian tiếp xúc tăng lên 1 đơn vị thì điểm lo lắng chung sẽ tăng lên 0,344 đơn vị với 95% KTC (0,098 – 0,590).
- Các nội dung đánh giá sự hài lòng có điểm số giao động từ 2 – 3 điểm
- Chức vụ trong công việc có mối liên quan âm với mức độ hài lòng chung; khi chức vụ trong công việc tăng lên 1 đơn vị thì mức độ hài lòng chung sẽ giảm xuống 2,654 đơn vị với 95% KTC (-4,107 - -1,201).
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|