Background: Dyslipidemia, caused by abnormalities blood lipid profiles including increased total cholesterol, increased triglycerides, increased LDL-C, and decreased HDL-C, has posed significant health risks including cardiovascular diseases, diabetes, and other pathologies for people over the world, Vietnam included. The main purpose of the systematic review and meta-analysis was to estimate the prevalence of dyslipidemia and describe some factors related to dyslipidemia among Vietnamese adults from 2010 to 2023.
Method: We searched relevant articles by key terms such as dyslipidemia, blood lipid, cholesterol, LDL, HDL, triglyceride. Included studies were extracted from Pubmed/ Medline, Web of Science, Embase, CINANL, and 27 journals in Vietnam between January 1st 2010, to August 3rd 2023. For meta-analysis, we performed forest plot using random effect model with R 4.4.1 and Stata 17.0.
Findings: 105 articles were included in systematic review and 67 studies were included in meta-analysis. The pooled prevalence of dyslipidemia was 68% (95%CI: 60% - 76%), high total cholesterol was 34% (95%CI: 29% - 40%), high triglycerides was 39% (95%CI: 32% - 46%), low HDL-C was 26% (95%CI: 20% - 35%), and high LDL-C was 26% (95%CI: 20% - 35%). Moreover, having diabetes (OR=2.47, 95%CI: 1.72 – 3.55), overweight/ obesity (OR= 2.46, 95%CI: 2.03 – 2.98), large WC (OR=3.47, 95%CI: 2.39 – 5.05), low physical activity (OR=2.20, 95%CI: 1.41 – 3.45), and low vegetables consumption (OR=3.64, 95%CI: 1.53, 8.07) were significantly positively associated with dyslipidemia.
Conclusion: The prevalence of dyslipidemia and subtypes is relatively high among Vietnamese adults, particularly with elevated triglycerides.
Xác định chỉ số đường huyết của sản phẩm dinh dưỡng Suppro Cerna. Người trường thành khỏe mạnh, Nghiên cứu bán thực nghiệm. Chỉ số đường huyết của sản phẩm dinh dưỡng Suppro Cerna là 27
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh
dưỡng của người bệnh ung thư đại trực tràng trước phẫu thuật.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 105 người bệnh được chẩn đoán xác định
mắc ung thư đại trực tràng đang điều trị tại Khoa Ngoại chung Bệnh viện Vinmec Times
City với thời gian thu thập số liệu từ tháng 12/2023 đến tháng 2/2024. TTDD được đánh
giá theo bộ công cụ PG-SGA và theo phân loại BMI của Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
dành cho người châu Á.
Kết quả: Tỉ lệ suy dinh dưỡng (SDD) theo PG-SGA và theo BMI là 41,0% và 30,5%.
Theo PG-SGA, tăng khả năng bị SDD ở nhóm đối tượng ≥ 60 tuổi so với nhóm < 60 tuổi
(OR= 3,8; p=0,007), mắc ung thư đại tràng so với nhóm mắc ung thư trực tràng (OR=5,9;
p=0,001), ung thư đại trực tràng giai đoạn 3, 4 so với giai đoạn 1, 2 (OR=9,0; p=0,008),
có so với nhóm không hóa, xạ trị trước phẫu thuật (OR=3,1; p=0,042). Theo BMI, tăng
khả năng bị SDD ở nhóm bệnh nhân mắc ung thư đại tràng so với nhóm mắc ung thư
trực tràng (OR=4,3; p=0,010).
Kết luận: Suy dinh dưỡng là vấn đề phổ biến ở người bệnh ung thư trực tràng trước
phẫu thuật. Các yếu tố liên quan đến TTDD của người bệnh ung thư đại trực tràng là
tuổi, loại ung thư, giai đoạn bệnh, hóa xạ trị trước phẫu thuật.
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của người bệnh suy tim điều trị nội trú tại khoa Nội tim mạch, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới năm 2022 – 2023.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 163 người bệnh suy tim đang điều trị nội trú tại khoa Nội tim mạch, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới.
Kết quả: Trong số 163 người bệnh tham gia vào nghiên cứu, 65% là nam giới. Tuổi trung bình của người bệnh là 55,5 ± 5,6 tuổi. 45,4% người bệnh có nguy cơ SDD từ nhẹ đến trung bình (SGA-B); 16,6% người bệnh có nguy cơ suy dinh dưỡng nặng (SGA-C). Các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh suy tim bao gồm: Bị bệnh suy thận (OR=3,2; 95% CI: 1,1–9,0; p=0,022); Suy tim độ 3,4 (OR=2,9; 95% CI: 1,4–6,1; p=0,003); Thời gian mắc bệnh >10 năm (OR=2,5; 95% CI: 1,2–23,9; p=0,043); Không tập thể dục (OR=2,9; 95% CI: 1,5–5,7; p=0,001).
Kết luận: Tỉ lệ nguy cơ suy dinh dưỡng ở người bệnh suy tim còn cao, cần chú ý tư vấn chế độ dinh dưỡng hợp lý cho đối tượng này.
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và mô tả một số yếu tố liên quan ở trẻ dưới 5 tuổi tại phòng khám Khoa Nhi, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam-CuBa Đồng Hới năm 2022 - 2023.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 451 tẻ em dưới 5 tuổi và người chăm sóc trẻ đến khám tại phong khám khoa Nhi, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới.
Kết quả: Tỷ lệ SDD chung là 37,2%, trong đó tỷ lệ SDD nhẹ cân là 12,6%, SDD thấp còi là 22,2% và SDD thể gầy còm là 14,4%. Nam chiếm tỷ lệ SDD nhiều hơn nữ ở cả 3 thể, với p < 0,05. Tỷ lệ SDD giảm dần theo tuổi của trẻ. Một số yếu tố liên quan đến TTDD của trẻ: thời gian cai sữa trước 18 tháng (OR = 1,846, p = 0,037,95%CI 1,039 – 3,281), có bệnh đường hô hấp cấp ( OR = 1,992, p = 0,028, 95%CI: 1,077 – 3,684), tình trạng ăn của trẻ (OR = 1,830 , p = 0,011 , 95%CI = 1,149 - 2,914).
Kết luận: SDD thể thấp còi, nhẹ cân ở mức trung bình, SDD thể gầy còm còn ở mức cao. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tình tạng dinh dưỡng của trẻ bao gồm thời gian cai sữa trước 18 tháng, bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, tình trạng ăn của trẻ.
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU NGHỆ AN NĂM 2022 - 2023
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả tình trạng dinh dưỡng và phân tích một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng ở người bệnh ung thư biểu mô tế bào gan.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến hành trên 90 người bệnh ung thư biểu mô tế bào gan.
Kết quả: Tỷ lệ suy dinh dưỡng của người bệnh ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) theo từng phương pháp: Theo chỉ số BMI là 24,2%, theo PG – SGA: Có 70% người bệnh suy dinh dưỡng (SDD) và có nguy cơ SDD, trong đó 7,8% SDD nặng (PG - SGA C), theo chỉ số hóa sinh: 36,7% người bệnh SDD theo albumin, chỉ số tổng số lượng tế bào Lympho (TLC) cho tỷ lệ SDD là 68,9% và 37,8% người bệnh bị thiếu máu. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng (TTDD) gồm: Đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) mắc bệnh kèm theo (OR: 4,5, 95% CI: 2,1 - 14,4), không thường xuyên ăn thịt và các chế phẩm từ thịt (OR:2,8, 95% CI: 1,1 – 7,3), không sử dụng thường xuyên cá và các chế phẩm từ cá (OR:6,0, 95% CI: 1,6 – 22,0), không thường xuyên ăn trứng và các chế phẩm từ trứng (OR:3,1 95% CI: 1,2 – 7,9), không thường xuyên ăn các loại quả chín (OR: 1,3, 95% CI: 1,0 – 1,6).
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá chất lượng cuộc sống (CLCS) và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư biểu mô tuyến giáp. Đối tượng: Nghiên cứu tiến hành trên 131 bệnh nhân chẩn đoán xác định là ung thư biểu mô tuyến giáp đã được phẫu thuật cắt tuyến giáp và chuyển tiếp điều trị xạ trị tại khoa Y học hạt nhân tại Bệnh viện K cơ sở Tân Triều từ tháng 12/2021 đến tháng 05/2022. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, bệnh nhân được đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng BMI và PG-SGA và tự hoàn thành bộ câu hỏi EORTC QLQ - C30 đánh giá CLCS tại thời điểm trước khi xạ trị. Kết quả cho thấy: 6,9% bệnh nhân được đánh giá nguy cơ suy dinh dưỡng nhẹ và vừa theo PG-SGA; 5,3% bệnh nhân nhẹ cân, 18,3% bệnh nhân thừa cân, béo phì theo BMI. điểm CLCS sức khỏe tổng quát trung bình là: 72,3 ± 14,6 (trên thang điểm 0 - 100, 100 điểm là tốt nhất). Phân tích hồi quy đa biến cho thấy các yếu tố giới tính, đặc điểm mô bệnh học (thể nang, thể nhú) có ảnh hưởng tới tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư biểu mô tuyến giáp với p <0,05.
Nghiên cứu trên 340 cặp trẻ sơ sinh và bà mẹ tại Bệnh viện Phụ sản trung ương, chúng tôi đưa ra một số kết luận như sau:
1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ sơ sinh:
- Cân nặng và chiều dài trung bình của trẻ sơ sinh lần lượt là:
3102±459 gam, 49,5±2 cm.
- Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân và thấp còi lần lượt là 14,1% và 12,3%.
2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ sơ sinh:
* Các yếu tố thuộc về bà mẹ:
- Tuổi, chiều cao, tình trạng thiếu máu và albumin huyết thanh của bà mẹ liên quan chặt chẽ tới tình trạng nhẹ cân sơ sinh.
- Tuổi, chiều cao, tình trạng thiếu máu và tiền sử sinh non của bà mẹ liên quan chặt chẽ tới tình trạng thấp còi sơ sinh.
* Yếu tố thuộc về trẻ:
- Tuổi thai khi sinh là yếu tố liên quan tới tình trạng sơ sinh nhẹ cân và thấp còi. Tuổi thai càng nhỏ thì nguy cơ nhẹ cân và thấp còi khi sinh của trẻ càng lớn.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến hành trên 91 người bệnh ung thư tuyến giáp tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2021 nhằm 2 mục tiêu: mô tả tình trạng dinh dưỡng, thói quen ăn uống và tình trạng hạ canxi huyết thanh của người bệnh ung thư tuyến giáp sau phẫu thuât tại bệnh viện đại học y hà nội; và phân tích một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng và tình trạng hạ canxi huyết thanh của người bệnh ung thư tuyến giáp sau phẫu thuật. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Không phải suy dinh dưỡng mà thừa cân, béo phì và tăng cân mới là vấn đề dinh dưỡng cần quan tâm ở người bệnh UTTG. Cụ thể, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở người bệnh UTTG chỉ chiếm 6,6% theo BMI; trong khi đó tỷ lệ thừa cân béo phì là 28,6%; có 28,6% tăng cân trong 1 tháng trước và 33% tăng cân trong 6 tháng trước. - Về thói quen ăn uống: người bệnh UTTG thường xuyên tiêu thụ một số nhóm thực phẩm không có lợi cho tuyến giáp đã được nghiên cứu như: thịt đỏ (với 67% thường xuyên tiêu thụ); thực phẩm chiên rán (60,5%); thực phẩm qua chế biến (26,7%); nhóm thực phẩm giàu goitrogens như rau họ cải (80,2%); đậu tương và các chế phẩm (39,5%). Ngược lại, người bệnh UTTG có thói quen tiêu thụ ít các nhóm thực phẩm có lợi và được khuyến cáo sử dụng như: cá và hải sản (15,1% sử dụng thường xuyên); hạt và quả hạch (3,5% sử dụng thường xuyên); ngũ cốc nguyên hạt (3,5% sử dụng thường xuyên); rau củ giàu beta caroten (9,3% sử dụng thường xuyên). Mặc dù phần lớn người bệnh đã sử dụng muối bổ sung iod trong chế biến món ăn (95,4%) nhưng phần lớn lại cho muối ngay từ đầu hoặc khi đang nấu – làm giảm hàm lượng iod trong thực phẩm. Có 27,5% hạ canxi huyết thanh sau phẫu thuật. Trong đó, 47,6% ở nhóm phẫu thuật toàn bộ tuyến giáp và 10,2% ở nhóm phẫu thuật 1 thùy tuyến giáp. Nồng độ canxi huyết thanh sau phẫu thuật thấp hơn trước phẫu thuật có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (trung bình là 2,14 ± 0,12 mmol/l so với 2,31 ± 0,08 mmol/l). Một số yếu tố liên quan tới tình trạng hạ canxi huyết thanh sau phẫu thuật bao gồm: có di căn hạch (OR = 2,6; p<0,05); phẫu thuật toàn bộ tuyến giáp (OR = 8,0; 95%CI: 2,4 – 27,2; p<0,01); bổ sung Vitamin D trước phẫu thuật (6,7% hạ canxi huyết thanh so với 31,6%; p=0,04); giảm PTH (1,7 ± 1,3 pmol/L ở nhóm hạ canxi so với 2,6 ± 0,9 pmol/L ở nhóm không hạ; p=0,0006); giảm 25(OH)D3 (19,1 ± 3,1 ng/ml so với 24,6 ± 12,5 ng/ml; p=0,04); nồng độ albumin (39,5 ± 6,9 g/l so với 40,0 ± 2,4 g/l; p=0,03). Nghiên cứu cho thấy, có mối tương quan trung bình giữa nồng độ 25(OH)D3 và nồng độ canxi huyết thanh sau phẫu thuật với r = 0,46, p<0,05. Ngược lại, nhóm phẫu thuật cắt 1 thùy tuyến giáp không có mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa hai chỉ số này với p>0,05. Nồng độ PTH sau phẫu thuật có mối tương quan trung bình với nồng độ canxi huyết thanh sau phẫu thuật với hệ số tương quan là r = 0,38; p = 0,0002.
Tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) ở người bệnh phẫu thuật là yếu tố nguy cơ làm tăng các biến chứng như: nhiễm trùng vết mổ, chậm liền vết mổ, nhiễm khuẩn, suy hô hấp, thậm chí tử vong. Bên cạnh đó, phẫu thuật ung thư đường tiêu hóa là một cuộc phẫu thuật lớn, theo chương trình Chăm sóc phục hồi sớm sau phẫu thuật (ERAS) về dinh dưỡng ngay trước khi phẫu thuật việc sử dụng carbohydrate uống làm tăng độ nhạy insulin lên 50% và điều này kéo dài đến giai đoạn sau phẫu thuật dẫn đến tình trạng kháng insulin ít hơn 50%, ít nguy cơ tăng đường huyết và cải thiện việc giữ protein và duy trì khối lượng cơ thể. Nhằm cung cấp những dữ liệu khoa học cho các nghiên cứu sau này để có thể điều trị và chăm sóc tốt hơn cho người bệnh ung thư đường tiêu hóa tại Việt Nam, đề tài với mục tiêu đánh giá tình trạng dinh dưỡng và Mô tả chế độ ăn uống một ngày trước phẫu thuật của người bệnh ung thư đường tiêu hóa trước phẫu thuật.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 171 người bệnh ung thư đường tiêu hóa trước phẫu thuật tại Bệnh viện K cơ sở Tân Triều năm 2021. Kết quả cho thấy: tỷ lệ thiếu máu (33,8%); tỷ lệ người bệnh có nguy cơ suy dinh dưỡng theo bộ công cụ PG – SGA là 87,1% trong đó 19,3% người bệnh bị suy dinh dưỡng nặng. Nhóm người bệnh UTTT có nguy cơ suy dinh dưỡng (theo PG-SGA) chỉ bằng 0,31 lần nguy cơ suy dinh dưỡng của nhóm người bệnh UTDD và UTĐT (95% CI: 0,12-0,79). Trong 171 người bệnh nghiên cứu ăn được đường miệng không có chỉ định nuôi dưỡng tĩnh mạch kèm theo. Đáng chú ý có một số người bệnh tự nhịn ăn hoàn toàn. Chế độ nuôi dưỡng trung bình 1 ngày trước phẫu thuật của người bệnh khoảng 1171,4 kcal/ngày, không cung cấp đủ năng lượng so với nhu cầu khuyến nghị của ESPEN 2016 (69,6%), hướng dẫn điều trị dinh dưỡng lâm sàng của Bộ Y tế 2015 (83%); có 01 người bệnh (0,6%) đảm bảo tính cân đối khẩu phẩn. Nguy cơ cung cấp thiếu năng lượng của nam giới cao gấp 2,61 lần nữ giới (95% CI: 1,14 – 5,99). Thời gian nhịn ăn trung bình trước phẫu thuật là 19.2 giờ, thời gian nhịn uống trước phẫu thuật là 15.5 giờ.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|