Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả thực trạng mắc COVID-19 của hành khách nhập cảnh tại cửa khẩu cảng hàng không Quốc tế Nội Bài-Hà Nội, GĐ 2020-2022. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, hồi cứu số liệu từ tài liệu, hồ sơ trong các nguồn dữ liệu của hành khách nhập cảnh tại Sân bay Quốc tế Nội Bài trong 3 năm từ 1/1/2020 tới ngày 31/12/2022.
Kết quả: Có 249 chuyến bay có hành khách mắc COVID-19 trong tổng số 20.355 chuyến bay hạ cánh tại Nội Bài. Số chuyến bay đến Nội Bài nhiều nhất trong cả 3 GĐ ghi nhận từ Châu Á. Trong tổng số 3.021.767 hành khách nhập cảnh, xác định được 669 người bị nhiễm SARS-CoV2 và chủ yếu là người Việt Nam (chiếm 69,1% tổng số hành khách và 80,4% hành khách nhiễm SARS-CoV2 ). Tuy nhiên, tỷ lệ mắc COVID-19/100.000 hành khách khác nhau ở 3 GĐ và ở mỗi chuyến bay đến từ các khu vực khác nhau. GĐ 2 có nhiều làn sóng dịch với tỷ lệ mắc/100.000 hành khách cao nhất trong tháng 6/2021 (1.197 hành khách) và cao nhất ở người có quốc tịch châu Phi (1.471), châu Âu (299), Việt Nam (290) và châu Mỹ (144).
Mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm và tỷ lệ tiêm chủng vắc xin trong chương trình Tiêm chủng mở rộng của học sinh lớp một năm học 2023-2024 tại thành phố Gia Nghĩa và huyện Đăk Glong, tỉnh Đăk Nông
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến tiêm đủ mũi vắc xin trong chương trình Tiêm chủng mở rộng của các đối tượng nghiên cứu trên.
Đối tượng: Hồ sơ tiêm chủng của học sinh lớp 1 năm học 2023-2024 tại thành phố Gia Nghĩa và huyện Đăk Glong, tỉnh Đăk Nông và người chăm sóc, cán bộ y tế
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang định lượng kết hợp định tính, hồi cứu số liệu tiền sử tiêm chủng và điều tra dựa trên biểu mẫu, kết hợp phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm. Sử dụng phân tích mô tả, hồi quy logistic đơn biến và đa biến, biểu đồ Kaplan-Meier trong phân tích survival analysis.
Kết quả chính: Còn khoảng trống trong bao phủ vắc xin ở thời điểm vào lớp 1 tại Đăk Nông. Tỷ lệ tiêm đủ mũi thấp (44,7%) nhưng có sự chênh lệch rõ rệt giữa tỷ lệ tiêm chủng tại TP. Gia Nghĩa (50,8%) cao hơn Đăk Glong (38,5%). Còn tỷ lệ đáng kể học sinh không nhận được một liều vắc xin nào trước khi đi học (7,7%), bao gồm cả mũi vắc xin phòng bệnh lao, tỷ lệ zero-dose cũng cao với tỷ lệ chung khoảng 9%. Quá trình tiêm chủng bù liều kéo dài hơn 4 năm mới đạt được tỷ lệ tiêm chủng hiện tại. Tiêm vắc xin phòng bệnh lao tạo động lực thúc đẩy việc tiêm các vắc xin phòng bệnh khác. Cả 3 nhóm yếu tố nhân khẩu học và kinh tế - xã hội, khả năng tiếp cận và quản lý đối tượng, thái độ và niềm tin với tiêm chủng đều có ảnh hưởng đến tiêm đủ mũi Các yếu tố có tác động tiêu cực mạnh mẽ đến khả năng tiêm chủng đủ mũi là không được quản lý trên Hệ thống NIIS, dân tộc, tôn giáo, số con, địa điểm sinh sống, cảm thấy “rất không cần thiết” phải tiêm chủng hoặc “cảm thấy do dự” khi tiêm chủng. Còn đối tượng khó tiếp cận và khó tiêm vắc xin (Dân tộc H’Mông) và địa bàn sinh sống không phải là yếu tố nguy cơ dẫn đến tình trạng không được tiêm đủ mũi trong mô hình đa biến. Có sự phân hoá các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến tiêm đủ mũi trên 2 địa bàn, trong khi Đăk Glong nổi bật lên với các yếu tố về nhân khẩu học và xã hội như dân tộc H’Mông (OR 2,11 (1,24-3,58)) và số con 0-10 tuổi hiện tại >3 (OR 2,10 (1,02-4,30)), Gia Nghĩa lại nổi bật với những yếu tố về kinh tế như đi làm xa 1-2 tuần/ tháng (OR 8,6 (1,07-69,58) và hệ thống TCDV (aOR 3,82 (1,22-11,95)).
Mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ học bệnh viêm não Nhật Bản tại khu vực miền Bắc - Việt Nam giai đoạn 2014 - 2023.
2. Ứng dụng mô hình toán học trong dự báo bệnh viêm não Nhật Bản tại khu vực miền Bắc - Việt Nam cho năm 2024.
Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu là 1.466 người bệnh viêm não Nhật Bản trong các hồ sơ trong cơ sở dữ liệu giám sát bệnh viêm não Nhật Bản của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương (VSDTTƯ) từ năm 2014 – 2023.
Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu được thực hiện tại 28 tỉnh/thành phố khu vực miền Bắc - Việt Nam trong khoảng thời gian từ tháng 5/2023 - 10/2024
- Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả loạt trường hợp bệnh và sử dụng các thống kê mô tả để mô tả các đặc điểm dịch tễ của bệnh và sử dụng mô hình SARIMA để dự báo sự bùng phát của bệnh viêm não Nhật Bản cho năm 2024.
Kết quả chính:
- Viêm não Nhật Bản tại khu vực miền Bắc - Việt Nam đang có xu hướng giảm dần theo thời gian, tỷ lệ mắc đã giảm từ 0,56/100.000 dân vào năm 2014 xuống còn 0,19/100.000 dân vào năm 2023. Bệnh xảy ra ở khắp các tỉnh nhưng tập trung nhiều ở khu vực Tây Bắc (chiếm 42,0% tổng số trường hợp bệnh) và thường tăng mạnh vào các tháng mùa hè, cao nhất vào tháng 6 - 7 hàng năm.
- Trong số các trường hợp bệnh, nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn nữ giới với khoảng 60% ở nam. Bệnh gặp chủ yếu ở trẻ em từ 15 tuổi trở xuống (88,4%) và phần lớn (80,1%) các trường hợp chưa được tiêm chủng hoặc không rõ tiền sử tiêm chủng vắc xin viêm não Nhật Bản.
- Các triệu chứng nặng do viêm não Nhật Bản gây ra như lơ mơ (74,7%), thay đổi tinh thần (71,8%), co giật (62,8%) vẫn còn rất phổ biến.
- Nghiên cứu cũng cho thấy viêm não Nhật Bản có tính mùa khá rõ rệt với chu kỳ 12 tháng.
- Mô hình SARIMA(1,0,0)(1,1,0)12 có độ phù hợp tốt, độ chính xác dự đoán ngắn hạn cao và có thể được áp dụng để dự đoán tỷ lệ mắc viêm não Nhật Bản. Tỷ lệ mắc viêm não Nhật Bản tại khu vực miền Bắc năm 2024 theo mô hình dự báo sẽ giảm nhẹ (tỷ lệ mắc khoảng 0,17/100.000 dân) và đạt đỉnh vào tháng 7.
Mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng bệnh viêm màng não do phế cầu ở trẻ dưới 5 tuổi điều trị tại Bệnh Viện Nhi trung ương giai đoạn 2015-2021.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị ở nhóm bệnh nhi nói trên.
Đối tượng: Các trường hợp bệnh nhi trên 1 tháng tuổi đến dưới 5 tuổi (1 tháng tuổi đến 59 tháng 29 ngày tuổi) được chẩn đoán viêm màng não do phế cầu tại Bệnh viện Nhi trung ương từ tháng 1/2015 đến tháng 12/2021 và được chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm RT-PCR tại Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu dịch tễ học mô tả loạt trường hợp bệnh, hồi cứu số liệu dựa trên hồ sơ lưu phiếu điều tra trường hợp viêm màng não do phế cầu và kết quả xét nghiệm tại Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương.
Kết quả nghiên cứu chính:
- Bệnh viêm màng não do phế cầu được ghi nhận tại tất cả các năm từ 19 - 48 trường hợp và có xu hướng giảm trong những năm gần đây, tỷ lệ mắc cao vào các tháng đầu năm và cuối năm (18% vào tháng 1, 10,5% vào tháng 11). Lứa tuổi chủ yếu mắc bệnh là dưới 1 tuổi (71,9%), tỷ lệ mắc ở nam cao hơn nữ giới (58% so với 42%). Hầu hết các trường hợp mắc bệnh có tiền sử chưa tiêm vắc xin có thành phần phế cầu (97%). Tỷ lệ bệnh nhân có thời gian nhập viện muộn (sau 3 ngày) cao (> 60%). Có 17 týp huyết thanh được xác định trong giai đoạn 2015-2021, các týp phổ biến gây bệnh là 6A/B (27,6%), 14 (20,6%), 23F (13,6%), 19F (6,1%).
- Những triệu chứng thường thấy khi mắc viêm màng não do phế cầu bao gồm thay đổi hành vi (86,4%), lơ mơ (83,3%), nôn (82%), sốt (79,8%), cứng gáy (63,2%).
- Tỷ lệ bạch cầu tăng cao ở hầu hết trường hợp bệnh (67,1%), các giá trị GOT, GPT, CRP tăng (tỷ lệ lần lượt là 46%, 32,1%, 73,4%). Về dịch não tủy, phần lớn các trường hợp bệnh có màu sắc dịch não tủy đục (67,1%), các giá trị bạch cầu, protein và glucose đều tăng ở các tỷ lệ khác nhau.
- Một số yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến tăng nguy cơ tử vong bệnh viêm màng não do phế cầu như: Thời gian nhập viện trên 3 ngày so với nhóm vào viện dưới 3 ngày, Glasgow dưới 8 so với nhóm có chỉ số Glasgow > 8, tăng chỉ số xét nghiệm sinh hóa máu GOT so với nhóm có chỉ số GOT bình thường.
Mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ và lâm sàng của bệnh nhân COVID-19 tại Việt Nam năm 2020,
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân COVID-19 tại
Việt Nam năm 2020.
Đối tượng: Các bệnh nhân tại Việt Nam được xác định là dương tính với vi rút SARS-CoV-2 trong năm 2020.
Phương pháp nghiên cứu:
1. Thời gian, địa điềm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành với dữ liệu của ca bệnh trên toàn quốc.
Thời gian: Các ca bệnh COVID-19 được Bộ Y tế công bố từ 1/1/2020 đến hết ngày
31/12/2020
2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu loạt bệnh.
3. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: Phương pháp chọn mẫu toàn bộ 1465 bệnh nhân
COVID-19 được Bộ Y tế công bố trong năm 2020, được tính từ bệnh nhân đầu tiên (BN001)
đến bệnh nhân cuối cùng được công bố trong ngày 31/12/2020 (BN1465).
Kết quả chính: Bệnh COVID-19 tại Việt Nam trong năm 2020 đã được khống chế mạnh mẽ với chỉ 1465 trường hợp được ghi nhận, thấp hơn nhiều so với thế giới. Đặc điểm chính của đợt dịch này là các vụ xâm nhập, các trường hợp dương tính chủ yếu là nhập cảnh kèm theo đó là một số ổ bùng phát tại các tỉnh, thành phố lớn và thường được khống chế ngay. Phần lớn các trường hợp nhiễm SARS-CoV-2 không có triệu chứng tại thời điểm được phát hiện, các bệnh nhân có triệu chứng thường có các biểu hiện giống như bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng. Thời gian điều trị tới khi âm tính hoàn toàn trung bình là 29 ngày. Bệnh nhân có xét nghiệm tái dương tính hoặc cần hỗ trợ hô hấp trong quá trình điều trị là yếu tố làm tăng thời gian nằm viện. Trong giai đoạn này, bệnh có tỷ lệ chết/mắc là 3% và những bệnh nhân tử vong chủ yếu thuộc nhóm người cao tuổi (trên 40 tuổi), có bệnh lý nền và đều là người Việt Nam. Do liên tục đánh giá tình trạng nhiễm vi rút ở các bệnh nhân dù đã khỏi, nghiên cứu ghi nhận tỉ lệ đáng kể bệnh nhân sau khi điều trị khỏi lần đầu có xét nghiệm PCR tái dương tính (2,5%). Bệnh nhân có triệu chứng tại thời điểm phát hiện có nguy cơ tái dương tính cao hơn, trong khi đó người có quốc tịch Việt Nam ít gặp nguy cơ này.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|