Tạp chí Y học Việt Nam
Một nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 361 sinh viên trường Đại học Y Hà Nội nhằm mô tả thực trạng thực hành về phòng tránh dịch bệnh COVID-19 của sinh viên trường Đại học Y Hà Nội. Kết quả cho thấy tỷ lệ sinh viên có điểm thực hành các biện pháp phòng ngừa ở mức tốt là 85,6%. Phần lớn sinh viên chấp hành nghiêm túc theo chỉ thị của Nhà nước (99,7%), thường xuyên vệ sinh tay đúng cách (98,7%), bổ sung dinh dưỡng, tăng thể trạng (89,2%), đeo khẩu trang khi ra đường (96,4%). Sinh viên trường Đại học Y Hà Nội sử dụng mạng xã hội (92,5%), trang web chính thức của Bộ Y tế (87,3%) và tivi (75,3%) để cập nhật tình hình dịch bệnh và phòng chống dịch bệnh. Một số yếu tố liên quan đến thực hành phòng chống dịch COVID-19 được đưa ra như tuổi, giới tính, chuyên ngành, người nhà làm việc trong ngành Y. Tuy nhiên, các yếu tố này không có ý nghĩa thống kê. Cần có thêm các nghiên cứu mở rộng với quy mô lớn hơn nhằm đánh giá sâu hơn về hành vi phòng chống dịch COVID-19 và các yếu tố liên quan đến những hành vi này của sinh viên
Tạp chí Y học dự phòng
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng ăn đồ ăn nhanh của sinh viên (SV) trường Đại học Y Hà Nội (ĐHYHN) năm 2020 - 2021 và một số yếu tố liên quan. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 315 SV năm nhất, ba, và sáu bác sĩ y học dự phòng và cử nhân Dinh dưỡng. Kết quả là 82,2% SV sử dụng đồ ăn nhanh. Khảo sát 3 lần ăn đồ ăn nhanh gần ngày phỏng vấn nhất cho thấy SV ăn bánh mỳ kẹp truyền thống (43,7%); ăn đồ ăn nhanh tất cả các bữa chính và hiếm khi ăn vào bữa khuya/tối muộn và thường ăn kèm cùng với các loại đồ ăn khác (56,9%). Gần một nửa số lượt ăn đồ ăn nhanh của SV (43,9%) có kèm uống nước có ga. SV chủ yếu mua đồ ăn nhanh và ăn tại nhà. Lý do chủ yếu là tụ tập với bạn bè/ người thân và không có thời gian. Hồi quy logistic đa biến cho thấy SV có tài chính bình thường có xu hướng sử dụng đồ ăn nhanh nhiều hơn SV có tài chính khó khăn. Sử dụng đồ ăn nhanh của SV ĐHYHN là phổ biến. Cần thực hiện chương trình truyền thông và hướng dẫn chuyển đổi từ lựa chọn đồ ăn nhanh sang ăn có lợi cho sức khoẻ. Phong trào gặp gỡ bạn bè và ăn uống có lợi cho sức khoẻ cần được phát động với SV.
Mục tiêu: 1. Mô tả thái độ về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất ngành bác sĩ y khoa của Trường Đại Học Y Hà Nội năm học 2020 - 2021.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến thái độ về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất ngành bác sĩ y khoa của Trường Đại Học Y Hà Nội năm học 2020 – 2021.
Đối tượng : Nghiên cứu được thực hiện trên sinh viên năm thứ nhất hệ bác sĩ y khoa năm học 2020-2021 tại trường Đại học Y Hà Nội.
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả chính:
1. Thái độ về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất ngành bác sĩ y khoa Trường Đại Học Y Hà Nội năm học 2020 - 2021.
Sinh viên năm nhất của hệ bác sĩ đa khoa đại học Y Hà Nội có thái độ tích cực về học kỹ năng giao tiếp hơn là thái độ tiêu cực.
Thái độ tích cực về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm nhất là cao đạt 49,7 điểm/ 65 điểm. Điểm trung bình tiểu mục cao nhất về vai trò và tầm quan trọng của học kỹ năng giao tiếp như “Phát triển KNGT của tôi cũng quan trọng như phát triển kiến thức của tôi về y học”, “học KNGT rất quan trọng vì khả năng giao tiếp là một kỹ năng suốt đời”, “tôi nghĩ rằng học KNGT rất hữu ích cho tấm bằng y khoa của mình”, hay “học kỹ năng giao tiếp đã và sẽ giúp tôi tôn trọng bệnh nhân”. Điểm đánh giá thấp nhất về học kỹ năng giao tiếp vui và thú vị.
Thái độ tiêu cực về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm nhất là thấp, đạt 31,8 điểm trên 65 điểm. Điểm trung bình tiểu mục đồng ý cao nhất là“Việc giảng dạy KNGT sẽ mang hình ảnh tốt đẹp hơn nếu nó giống một môn khoa học hơn”. Điểm trung bình tiểu mục không đồng ý nhất là “Tôi không hiểu học KNGT để làm gì”; “Tôi không cần KNGT giỏi để trở thành bác sĩ”
2. Một số yếu tố liên quan đến thái độ về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất ngành bác sĩ y khoa Trường Đại Học Y Hà Nội năm học 2020 – 2021.
Yếu tố liên quan đến thái độ tích cực về học KNGT: bố là bác sĩ, phương pháp đóng vai phù hợp để dạy KNGT, nội dung giảng dạy KNGT hấp dẫn, và sinh viên có bố mẹ và người thân cho rằng học KNGT là cần thiết.
Yếu tố liên quan đến thái độ tiêu cực về học KNGT: phương pháp đóng vai không phù hợp để dạy KNGT, nội dung giảng dạy KNGT không hấp dẫn, và bản thân sinh viên không cho rằng KNGT là cần thiết.
Đặt vấn đề: Sinh viên y khoa có chương trình học và thi cử nặng nề, nếu tình trạng dinh dưỡng không đảm bảo sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới sức khoẻ, tinh thần và năng lực học tập. Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của sinh viên Khoa y, Trường Đại học Duy Tân. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 611 đối tượng là sinh viên ngành Y đa khoa từ năm thứ 2 đến năm thứ 7 trường Đại học Duy Tân từ tháng 04/2021 đến tháng 05/2022. Thông tin chung được thu thập qua phỏng vấn bằng bộ câu hỏi soạn sẵn có cấu trúc, các số đo nhân trắc được thu thập bằng các dụng cụ cân đo. Kết quả: Tỷ lệ sinh viên bị thiếu năng lượng trường diễn (CED) là 16,0%; thừa cân và béo phì lần lượt chiếm tỉ lệ là 10,3% và 1,0%. Kết luận: Tỷ lệ CED của sinh viên khoa Y Đại học Duy Tân ở mức vừa theo ngưỡng đánh giá mức độ phổ biến của CED trong cộng đồng theo WHO.
Tạp chí Y học Việt Nam
Tạp chí Y học Việt Nam
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên sinh viên năm thứ nhất Trường Đại học Y Hà Nội nhằm mô tả thói quen tìm kiếm thông tin COVID - 19 qua Internet và phân tích sự khác biệt về điểm eHEALS (thang đo
khả năng đọc viết eHealth (eHealth Literacy Scale)) giữa các nhóm đối tượng. Trong 346 người tham gia, có tới 94,8% sử dụng Internet để tìm kiếm thông tin sức khỏe về COVID - 19. Trong đó, tổng điểm eHEALS đạt mức cao (31,19 ± 8,34); điện thoại thông minh được đa số người sử dụng (96,65%); đối tượng chủ yếu tìm kiếm cho bản thân (77,46%); phổ biến nhất với tần suất 3 lần/tháng hoặc ít hơn (54,27%). Nội dung sức khỏe được tìm kiếm phổ biến nhất là tình hình dịch bệnh ở Việt Nam và trên thế giới (88,72%) với lý do chủ yếu là mong muốn nâng cao kiến thức hoặc tò mò (75,61%). Mạng xã hội là nguồn thông tin phổ biến nhất đối với những người tham gia nghiên cứu (69,21%) với lý do được đưa ra chủ yếu là đặc tính dễ theo dõi/sử dụng (53,66%). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm eHEALS giữa 2 nhóm tần suất tìm kiếm trực tuyến thông tin COVID - 19 (p < 0,05).
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam
Khi mối đe dọa toàn cầu về COVID-19 tiếp tục xuất hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Sinh viên y khoa là đối tượng xung phong đi phòng chống dịch và là đối tượng có nguy cơ cao tiếp xúc và nhiễm SARS-CoV-2. Do vậy, việc trang bị kiến thức và có thái độ tích cực về COVID-19 của sinh viên Y khoa là cần thiết. Mục tiêu:
1. Mô tả kiến thức và thái độ về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID-19 của sinh viên trường Đại học Y Hà Nội năm 2020.
2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức và thái độ về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID-19 của sinh viên trường Đại học Y Hà Nội năm 2020.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 361 sinh viên trường Đại học Y Hà Nội được triển khai năm 2020. Kết quả và kết luận: 67,59% sinh viên có kiến thức tốt về COVID-19. Đa phần sinh viên có thái độ tích cực đối với dịch bệnh COVID-19 (chiếm 95,01%). Kiến thức của sinh viên Bác sĩ đa khoa tốt hơn sinh viên hệ cử nhân Y tế công cộng (OR=0,40; 95% CI=0,19 – 0,85). Các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức và thái độ của sinh viên về COVID-19 bao gồm chuyên ngành và người nhà làm trong lĩnh vực y tế.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí Nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|