Nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm mô tả tỷ lệ hiện mắc bệnh bụi phổi than của 275 người lao động tại một công ty than tỉnh Quảng Ninh năm 2023. Số liệu được thu thập phỏng vấn trực tiếp người lao động và chụp phim Xquang để chẩn đoán bệnh bụi phổi than. Kết quả cho thấy tỷ lệ hiện mắc bệnh bụi phổi than là 10,9%. Tỷ lệ mắc bệnh bụi phổi than ở nam giới là 11,4%. Không có nữ giới mắc bệnh bụi phổi than trong nghiên cứu. Nhóm tuổi từ 50 tuổi trở lên có tỷ lệ mắc cao nhất là 20,3%. Tuổi trung bình mắc bệnh bụi phổi than 47,07 ± 5,93. Người lao động măc bệnh bụi phổi than có tuổi nghề > 26 năm chiếm tỷ lệ 50%. Thâm niên nghề càng cao tỷ lệ mắc bệnh càng nhiều (p < 0,05). Kết quả nghiên cứu là cơ sở đề xuất các công ty than cần tổ chức khám phát hiện bệnh bụi phổi than cho người lao động khai thác than, nhất là nam giới, người có tuổi đời và tuổi nghề cao.
Mục Tiêu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trong nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ hiện mắc bệnh bụi phổi than và một số yếu tố liên quan đến mắc bệnh bụi phổi than của người lao động tại Công ty Cổ phần Than Vàng Danh, Quảng Ninh, năm 2021.
Phương pháp: Điều tra cắt ngang toàn bộ người lao động tại công ty cổ phần than Vàng Danh, Quảng Ninh đủ tiêu chuẩn tham gia vào nghiên cứu được tiến hành từ tháng 10 năm 2020 đến 31 tháng 8 năm 2023.
Kết quả: Kết quả cho thấy tỷ lệ hiện mắc bệnh bụi phổi than là 15,8% trong đó người lao động mắc bệnh đều là nam giới; Tuổi trung bình mắc bệnh bụi phổi than là 37,3 ± 6,8 tuổi; 85,1% đối tượng mắc bệnh bụi phổi than là kích thước p/p và 60,6% có mật độ đám mờ từ 1/0 đến 1/2. Triệu chứng khó thở và ho khạc đờm rất thường gặp ở những người lao động làm nghề khai thác than. những người có tuổi nghề trên 5 năm nhưng dưới 10 năm thì có nguy cơ mắc bụi phổi than gấp 2,634 lần so với người có thâm niên < 5 năm (95%CI: 0,293- 23,664; χ2=156,715, p<0,001). Không có sự khác nhau về nguy cơ mắc bệnh bụi phổi than giữa nam và nữ (p > 0,05). So với người lao động tiếp xúc với nồng độ bụi hạt toàn phần cộng dồn <4600 hạt thì đối tượng tiếp xúc với bụi hạt toàn phần cộng dồn với nồng độ 4600- 8689 hạt có nguy cơ mắc bụi phổi than gấp 14,196 lần (95%CI: 2,931- 68,753; p=0,001). Người lao động tiếp xúc với bụi hạt hô hấp cộng dồn với nồng độ ≥ 9757 hạt có nguy cơ mắc bụi phổi than gấp 1,044 lần so với đối tượng tiếp xúc với bụi hạt hô hấp cộng dồn với nồng độ <3160 hạt (95%CI: 0,306-3,556), tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p= 0,072>0,05).
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu được tiến hành trên 2 nhóm người lao động có tiếp xúc trực tiếp với bụi Silic tại tỉnh Hải Dương và Thái Nguyên giai đoạn từ năm 2019-2020. Nhóm có bệnh gồm 205 đối tượng nghiên cứu được chẩn đoán mắc bệnh bụi phổi Silic và nhóm so sánh với 200 người không bị mắc căn bệnh trên. Kết quả cho thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng hút thuốc và nguy cơ mắc bệnh bụi phổi Silic (OR=1,84; 95%CI:1,24-2,75, p = 0.003). Ngoài ra, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p= 0,026 giữa nồng độ TNF-α trong máu của nhóm có bệnh (21,5 pg/mL) và nhóm so sánh (13,7 pg/mL). Nghiên cứu đã sử dụng đường cong ROC để xác định điểm cắt (0,505 pg/mL) và tính độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm TNF-α trong chẩn đoán căn bệnh này. Tuy nhiên, chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổi, giới tính, tuổi nghề và kiểu gen, alen TNF-α với nguy cơ mắc bệnh bụi phổi Silic.
Tạp chí Y học Việt Nam
Bệnh bụi phổi silic cho đến hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, người bệnh thường vào viện điều trị bởi những ảnh hưởng của bệnh lên cơ quan hô hấp với các triệu chứng không khác biệt so với các bệnh hô hấp thông thường khác. Nhằm giúp cho các bác sỹ lâm sàng có những nhìn nhận về bụi phổi silic một
cách rõ ràng hơn, từ đó giúp cho hướng chẩn đoán
bệnh sớm, một nghiên cứu hồi cứu mô tả các triệu
chứng lâm sàng thu nhận được ở 103 bệnh nhân bụi
phổi silic được điều trị tại Bệnh viện Phổi trung ương
năm 2019-2020. Kết quả cho thấy: 98% bệnh nhân
bụi phổi silic điều trị tại Bệnh viện Phổi trung ương là
nam giới; 33,7% lao động khai thác vàng; 25,5%khai
thác đá. Khó thở là triệu chứng cơ năng thường gặp
nhất (98,8%). Triệu chứng thực thể: Rì rào phế nang
giảm chiếm 91,2%, rale nổ là 75,7%, rale ẩm là
73,8%. Cần khai thác tiền sử nghề nghiệp để có thể
chẩn đoán sớm bệnh bụi phổi silic tại các cơ sở điều
trị bệnh hô hấp. Cần thực hiện giám sát phát hiện và quản lý bệnh nhân bụi phổi silic suốt đời theo hướng
dẫn của ngành y tế.
Tạp chí Y học Việt Nam
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí Y học Việt Nam
Tạp chí Dược học
Tạp chí Y học Quân sự
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí Y học Quân sự
Tạp chí nghiên cứu Y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí Y học dự phòng
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|