Mục tiêu:
- Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh đái tháo đường type 2 đang điều trị nội trú tại khoa Thận – Nội tiết Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, năm 2023 - 2024.
- Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh đái tháo đường type 2 đang điều trị nội trú tại khoa Thận – Nội tiết Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, năm 2023-2024.
Phương pháp: Nghiên cứu trên 245 người bệnh ĐTĐ týp 2. Tình trạng dinh dưỡng được xác định theo BMI khuyến nghị cho người châu Á và MNA. Phân tích hồi quy logistic đơn biến được áp dụng để xác định một số yếu tố liên quan đến TC-BP.
Kết quả: Tình trạng dinh dưỡng theo BMI có tỷ lệ SDD, bình thường, thừa cân, béo phì lần lượt là: 8,6%; 53,9%; 25,7%;11,8%. Theo MNA có tỷ lệ bình thường, có nguy cơ SDD và SDD lần lượt là 18%; 62,4% và 19,6%. Tăng khả năng bị TC-BP ở nhóm người có học vấn trên trung học phổ thông (THPT) so với nhóm có học vấn từ THPT trở xuống (OR = 5,8; p<0,001), tăng khả năng bị TC-BP ở nhóm người có rối loạn lipid máu so với nhóm không rối loạn lipid máu (OR=7,0; p<0,001). Tăng khả năng TC –BP ở nhóm có uống rượu bia so với nhóm không uống rượu bia ( OR = 5,3; p<0,001). Tăng khả năng TC-BP ở nhóm không tập thể dục so với nhóm có tập thể dục ( OR =2,2;p<0,05)
Kết luận: Tỷ lệ SDD và TC- BP theo BMI là 8,6% và 37,5%. Tỷ lệ nguy cơ SDD và SDD theo MNA là 62,4% và 19,6%. Các yếu tố liên quan đến TC-BP là trình độ học vấn trên THPT, có rối loạn lipid máu, uống rượu bia, không tập thể dục.
Bối cảnh và mục tiêu: ĐTĐ type 2 đang gia tăng nhanh chóng tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh thiếu hụt các nghiên cứu tổng quan về TTDD của người bệnh. Để cung cấp cơ sở dữ liệu cho các chuyên gia y tế và cải thiện hiệu quả điều trị, nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu mô tả TTDD của người bệnh ĐTĐ type 2 trong giai đoạn 2019 - 2023 và phân tích thói quen ăn uống của nhóm người bệnh này tại Việt Nam.
Phương pháp: Nghiên cứu này áp dụng phương pháp tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp theo hướng dẫn từ Cochrane Handbook và PRISMA. Dữ liệu được thu thập từ các nguồn tạp chí y học thế giới và Việt Nam. Hai nghiên cứu viên độc lập trích xuất và đánh giá dữ liệu theo danh sách kiểm tra JBI. Phân tích dữ liệu bao gồm tính toán tỷ lệ tổng hợp, sử dụng biểu đồ Forrest và kiểm định I2, quản lý và phân tích số liệu được thực hiện bằng Stata-14 và Excel.
Kết quả: 38 nghiên cứu được xem xét với mẫu từ 50-519 người. Tuổi trung bình 47,33-73,9, BMI trung bình 22,3-24,5 kg/m2, thời gian mắc bệnh 5,13-9,65 năm. Chất lượng nghiên cứu trung bình đạt 72% (theo JBI). Kết quả phân tích gộp tỷ lệ TCBP lần lượt là 50% (BMI≥23), 28% (BMI≥25). Tỷ lệ SDD lần lượt là 47% (SGA) và 4% (BMI < 18,5). Nhóm ăn đêm, uống rượu bia, và ít tập thể dục có nguy cơ TCBP cao hơn đáng kể.
Kết luận: Tại Việt Nam, TCBP là vấn đề phổ biến đối với người bệnh ĐTĐ type 2, trong khi SDD cũng được ghi nhận, tuy ở mức thấp hơn. Một số thói quen ăn uống được xác định là yếu tố nguy cơ của TCBP, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện chế độ dinh dưỡng và thúc đẩy lối sống lành mạnh trong quản lý và kiểm soát bệnh ĐTĐ type 2 tại Việt Nam.
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và can thiệp chế độ nuôi dưỡng là rất cần thiết trong việc điều trị người bệnh Covid-19, đặc biệt đối với người bệnh Covid-19 mức độ nặng và nguy kịch. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Tình trạng dinh dưỡng và chế độ nuôi dưỡng của người bệnh Covid-19 mức độ nặng, nguy kịch tại Bệnh viện Điều trị Người bệnh Covid-19 trực thuộc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2021 – 2022” với 2 mục tiêu nghiên cứu là “Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh Covid-19 mức độ nặng, nguy kịch tại Bệnh viện Điều trị Người bệnh Covid-19 trực thuộc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2021 – 2022” và “Mô tả chế độ nuôi dưỡng trong 3 ngày sau nhập viện của người bệnh Covid-19 mức độ nặng, nguy kịch tại Bệnh viện Điều trị Người bệnh Covid-19 trực thuộc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2021 – 2022”.
Thiết kế nghiên cứu là mô tả cắt ngang và chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Nghiên cứu được thực hiện trên đối tượng người bệnh Covid-19 điều trị tại Bệnh viện Điều trị Người bệnh Covid-19 trực thuộc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ 20 tuổi trở lên được chẩn đoán Covid-19 mức độ nặng, nguy kịch theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế; Không có các khuyết tật như gù vẹo hay biến dạng cột sống và có thời gian nằm viện từ 7 ngày trở lên.
Nghiên cứu thu được một số kết quả chính là: Nghiên cứu trên 101 người bệnh Covid-19 có độ tuổi trung bình là 73,18 ± 13,78 tuổi; Tỷ lệ nam, nữ lần lượt là: 47,52% và 52,48%. Tình trạng dinh dưỡng cụ thể theo chỉ số BMI có tỷ lệ suy dinh dưỡng là 11,88%, tỷ lệ thừa cân – béo phì là 36,63%; Theo tiêu chuẩn GLIM có tỷ lệ suy dinh dưỡng là 60,39%, trong đó 34,65% là suy dinh dưỡng mức độ vừa và 25,74% là suy dinh dưỡng mức độ nặng; Theo giá trị xét nghiệm Albumin có tỷ lệ suy dinh dưỡng là 91,09%; Theo giá trị xét nghiệm Prealbumin có tỷ lệ suy dinh dưỡng là72,83%. Đặc biệt có tới 83,17% người bệnh sụt cân sau quá trình nằm viện điều trị. Chế độ nuôi dưỡng trong 3 ngày sau nhập viện có kết quả là người bệnh được nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa hoàn toàn trong 3 ngày có tỷ lệ cao, trong đó lần lượt từ ngày thứ nhất là 81,19%, ngày thứ 2 là 81,19% và ngày thứ 3 là 71,29%. Người bệnh trong nghiên cứu cần được hỗ trợ trong ăn uống hoàn toàn với tỷ lệ trong 3 ngày lần lượt có ngày thứ nhất là 77,23%, ngày thứ 2 là 83,17%, ngày thứ 3 là 85,15%. Thành phần dinh dưỡng bao gồm các chất sinh năng lượng, vitamin và khoáng chất được tăng dần theo từng ngày nuôi dưỡng để đạt được nhu cầu khuyến nghị.
Mục tiêu:
1. Mô tả tình trạng dinh dưỡng của trẻ 24-59 tháng tuổi tại một số trường mầm non thuộc quận Hoàn Kiếm và huyện Đông Anh, Hà Nội năm 2019-2020.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan tới tình trạng dinh dưỡng của trẻ 24-59 tháng tuổi tại một số trường mầm non thuộc quận Hoàn Kiếm và huyện Đông Anh, Hà Nội năm 2019-2020.
Đối tượng: trẻ 24-59 tháng tuổi ở một số trường mầm non thuộc quận Hoàn Kiếm và huyện Đông Anh, Hà Nội. Những người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ở nhà và cô giáo trực tiếp nuôi dạy trẻ ở trường được chọn để thu thập thông tin liên quan đến trẻ.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, cỡ mẫu: công thức ước lượng một tỷ lệ, phương pháp chọn mẫu: theo nhiều giai đoạn
Kết quả chính:
Trẻ em 24-59 tháng tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi chiếm tỷ lệ cao nhất 6,5%, tiếp đến là thể gầy còm 3,2% và thấp nhất là thể nhẹ cân 2,96%. Tỷ lệ trẻ thừa cân là 8,0%, tỷ lệ trẻ béo phì là 4,2%.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân, thấp còi và gầy còm ở huyện Đông Anh (lần lượt là 5,3%, 8,7%, 4,1%) đều cao hơn huyện Hoàn Kiếm (lần lượt là 0,6%, 4,2%, 2,2%). Ngược lại tỷ lệ thừa cân (11,1%), béo phì (6,2%) của trẻ ở Hoàn Kiếm đều cao hơn tỷ lệ thừa cân (5,0%) và béo phì (2,1%) của trẻ ở huyện Đông Anh. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ SDD nhẹ cân, SDD thấp còi và thừa cân, béo phì giữa hai quận huyện (p<0,05).
Suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ 24-59 tháng tuổi ở hai quận Hoàn Kiếm và Đông Anh Hà Nội có liên quan đến giới tính, cân nặng sơ sinh thấp và thói quen lười ăn của trẻ.
Thừa cân béo phì ở trẻ 24-59 tháng tuổi ở hai quận Hoàn Kiếm và Đông Anh Hà Nội có liên quan đến BMI bố mẹ ≥23 kg/m2, cân nặng sơ sinh cao của trẻ, cân nặng tăng trong thời gian thai kì hơn 12kg, chăm sóc dinh dưỡng chưa hợp lý như cho ăn bổ sung trước 6 tháng tuổi, uống thêm sữa công thức trước 6 tháng tuổi và cai sữa trước 24 tháng tuổi; thời gian ngủ buổi tối ít hơn 8 tiếng và thời gian xem tivi > 120 phút/ngày.
Tuổi trung bình của thai phụ mắc ĐTĐTK là 32,6 ± 5,1 tuổi, trong đó nhóm 30-34 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 38,4%. Trước mang thai, tỷ lệ thừa cân là 21,1%, béo phì là 13%, bình thường là 61,6%. Trong giai đoạn mang thai, số cân tăng trung bình là 0.55 ± 0.3kg/tuần, trong đó tỷ lệ tăng cân thừa so với khuyến nghị là 53%. Tỷ lệ thiếu máu là 8,7%, tỷ lệ tăng triglycerid, tăng cholesterol và tăng LDL-C lần lượt là 85.9, 76.2, 64.9%. Tỷ lệ đạt kiến thức của ĐTNC là 74,1%, không đạt kiến thức là 25,9%. Trung bình tổng năng lượng khẩu phần là 1427.2 ± 319 kcal, trung bình tỷ lệ các chất P:L:G lần lượt là 21,2 : 27,5 : 51,2%. Giá trị trung bình một số chất không sinh năng lượng là: chất xơ 10.9 ± 5.3g, Calci 722.2 ± 307.7mg, Sắt 13.2 ± 7.8mg, Vitamin D 1.58 ± 2.05µg, Folat 296.71 ± 136.91µg, Vitamin C 149.64 ± 78.27 mg, Vitamin B1 1.39 ± 0.45 mg.
Mục tiêu:
1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của học sinh tại trường trung học cơ sở Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội Năm 2022.
2. Mô tả kiến thức, thực hành dinh dưỡng của học sinh tại trường trung học cơ sở Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội Năm 2022.
Đối tượng:
Học sinh từ 10 - 14 tuổi đang theo học tại trường THCS Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội năm 2022.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 300 học sinh 10-14 tuổi, trường trung học cơ sở (THCS) Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội năm 2022 sử dụng phương pháp nhân trắc đánh giá TTDD theo chỉ số Z-score BMI theo tuổi và chiều cao theo tuổi (HAZ) và bộ câu hỏi phỏng vấn có sẵn
Kết quả: Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể gầy còm (BAZ <-2) là 9,3% trong đó nam (9,9%) và nữ (8,7%); có xu hướng tăng theo tuổi: ở nhóm 11 tuổi là 4,5%, nhóm 12 tuổi là 6,4%, nhóm 13 tuổi là 10,1% và nhóm 14 tuổi là 14,3%. Tỷ lệ SDD thấp còi chung là 5,7%, tỷ lệ thừa cân là 5,0%, béo phì là 0,7%. 84,0% học sinh có kiến thức đúng cho rằng bữa ăn cần có đủ 4 nhóm chất dinh dưỡng là tinh bột, chất béo, chất đạm, vitamin và chất khoáng. 81% học sinh cho rằng ăn nhiều chất béo là nguyên nhân dẫn đến béo phì. Chỉ có 25,7% học sinh cho rằng chất béo là chất dinh dưỡng cung cấp nhiều năng lượng nhất
Tình trạng dinh dưỡng và vi chất dinh dưỡng của phụ nữ mang thai có mối tương quan chặt chẽ với tình trạng dinh dưỡng của trẻ sơ sinh. Kiến thức, thực hành dinh dưỡng của phụ nữ mang thai có mối tương quan chặt chẽ với tình trạng dinh dưỡng của thai phụ trong thời kỳ có thai.
Mục tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm về kiến thức, thực hành dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của phụ nữ có thai 24 và 36 tuần đến khám tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội.
2.Mô tả một số đặc điểm về tình trạng dinh dưỡng của phụ nữ có thai 24 và 36 tuần đến khám tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội
Phương pháp: Điều tra mô tả cắt ngang, phỏng vấn 339 thai phụ đến khám tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội.
Kết quả: Tuổi trung bình của các thai phụ là 28,8 ± 4,8, trong đó độ tuổi từ 25-35 tuổi chiếm khoảng 65,0% (n=220). Trước khi mang thai, tỷ lệ thừa cân (BMI ≥23) là 1,8% (n=6), tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn (BMI<18,5) là 11,8% (n= 40). Tỷ lệ thai phụ đến khám mang thai ở lần thứ hai cao hơn những thai phụ mang thai ở lần thứ nhất, lần lượt là 50,4 % (n= 171) và 47,8% (n=162). Tỷ lệ thai phụ thiếu năng lượng trường diễn trước mang thai tăng cân nặng đạt chuẩn là 22,5% (n= 9), số thai phụ có BMI bình thường tăng cân đạt chuẩn là 27,6% (n=16). Có 84,3% phụ nữ có thai biết nên đi khám ít nhất 3 lần trong suốt thời kỳ mang thai, 72,9% phụ nữ có thai thực hành đúng. Số thai phụ hiểu biết về mức tăng cân đúng trong thời gian có thai là 71,2%. Có 87% trả lời đúng về chế độ ăn tăng lên khi có thai, 78,8% thực hành chế độ ăn tăng lên. Tỷ lệ hiểu biết đúng về chế độ ăn hợp lý (đủ về số lượng và đủ 4 nhóm thực phẩm) là 46%. Số đối tượng cho rằng cần ăn kiêng khi có thai là 34,8%, trên thực tế chỉ có 19% thực hiện ăn kiêng khi có thai. Có 37% bổ sung viên sắt trước khi có thai, 43,7% bổ sung viên sắt trong 3 tháng đầu. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa tình trạng nghén/không nghén và tăng cân/không tăng cân, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số mức tăng cân giữa 2 nhóm này (p=0,01). Tỷ lệ bổ sung sắt đúng /thai phụ có trình độ học vấn trên cấp 3 cao hơn so với nhóm còn lại. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p=0,02<0,05. Với OR= 2,3, khoảng tin cậy 95% CI (1,3- 4)
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư phổi điều trị hóa xạ trị kết hợp. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, được tiến hành năm 2022 trên 160 người bệnh đang điều trị ung thư phổi tại Bệnh viện Phổi Trung ương. Sử dụng chỉ số BMI, PG-SGA và một số chỉ số cận lâm sàng như protein, albumin huyết thanh, nồng độ hemoglobin máu để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh. Kết quả: Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn là 19,4%. Tỷ lệ người bệnh có nguy cơ suy dinh dưỡng với mức PG-SGA loại B là 34,4% và loại C là 40%. 32,5% đối tượng có nguy cơ suy dinh dưỡng nhẹ và vừa với mức albumin < 28 g/l, 45,6% người bệnh có tình trạng thiếu máu. Kết luận: Tỷ lệ người bệnh ung thư phổi hóa xạ trị có nguy cơ suy dinh dưỡng ở mức cao. Do vậy, cần tăng cường chăm sóc dinh dưỡng cho người bệnh để tránh gây sụt cân và nâng cao hiệu quả điều trị.
Tạp chí Y học Việt Nam
Mục tiêu: 1) Xác định tỷ lệ thừa cân (TC), béo phì (BP) ở học sinh lớp 5 trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2021. 2) Mô tả kiến thức về TC, BP ở học sinh lớp 5 trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Học sinh lớp 5 tại trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương; nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Chỉ số BMI trung bình của trẻ nam và trẻ nữ lần lượt là 19,0 ± 4,7 kg/m2 và 19,2 ± 3,9 kg/m2 , tỷ lệ trẻ bị thừa cân, béo phì là 27,2%. Tỷ lệ trẻ có kiến thức về khái niệm thừa cân, béo phì tốt đạt là 59,6%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về nguyên nhân thừa cân, béo phì tốt đạt là 57,2%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về tác hại của thừa cân, béo phì tốt đạt là 58,0%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về cách phòng chống thừa cân, béo phì tốt đạt là 57,6%. Kết luận: Nguy cơ thừa cân, béo phì tăng gấp 9,5 lần (95%CI: 4,73-19,03) ở trẻ có kiến thức chung về thừa cân, béo phì chưa tốt. Việc giáo dục cho trẻ có được kiến thức cơ bản tốt để có được nhận thức và hành vi đúng đắn nhằm mục đích phòng chống thừa cân, béo phì là vô cùng cần thiết
Mục tiêu: 1) Xác định tỷ lệ thừa cân (TC), béo phì (BP) ở học sinh lớp 5 trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2021. 2) Mô tả kiến thức về TC, BP ở học sinh lớp 5 trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Học sinh lớp 5 tại trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương; nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Chỉ số BMI trung bình của trẻ nam và trẻ nữ lần lượt là 19,0 ± 4,7 kg/m2 và 19,2 ± 3,9 kg/m2, tỷ lệ trẻ bị thừa cân, béo phì là 27,2%. Tỷ lệ trẻ có kiến thức về khái niệm thừa cân, béo phì tốt đạt là 59,6%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về nguyên nhân thừa cân, béo phì tốt đạt là 57,2%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về tác hại của thừa cân, béo phì tốt đạt là 58,0%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về cách phòng chống thừa cân, béo phì tốt đạt là 57,6%. Kết luận: Nguy cơ thừa cân, béo phì tăng gấp 9,5 lần (95%CI: 4,73-19,03) ở trẻ có kiến thức chung về thừa cân, béo phì chưa tốt. Việc giáo dục cho trẻ có được kiến thức cơ bản tốt để có được nhận thức và hành vi đúng đắn nhằm mục đích phòng chống thừa cân, béo phì là vô cùng cần thiết.
Nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng và mô tả một số yếu tố liên quan của người bệnh đái tháo đường type 2, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên 128 người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị nội trú tại bệnh viện đa khoa Hưng Hà năm 2022.
Kết quả: Theo chỉ số khối cơ thể (BMI) có 22,6% người bệnh thừa cân, béo phì (TCBP); 10,2% suy dinh dưỡng (SDD) và 67,2% bình thường. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có mối liên quan giữa tình trạng thừa cân – béo phì với thói quen ăn ngọt, hoạt động thể lực và năng lượng ăn vào của đối tượng nghiên cứu.
Kết luận: Tỷ lệ thừa cân - béo phì ở người bệnh đái tháo đường type 2 có sự gia tăng, thói quen ăn ngọt, hoạt động thể lực và năng lượng ăn vào không đạt nhu cầu khuyến nghị là yếu tố nguy cơ của thừa cân, béo phì.
Mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ thừa cân, béo phì của người trưởng thành đến khám tại Viện Dinh dưỡng năm 2011-2022
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến tình trạng thừa cần béo phì của người trưởng thành đến khám tại Viện Dinh dưỡng năm 2021-2022
Đói tượng: Người trưởng thành từ 20 tuổi đến khám tại Khoa khám tư vấn dinh dưỡng người lớn - Viện Dinh dưỡng
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
Kết quả chính:
1. Tình trạng thừa cân béo phì: thừa cân là 13,5%, béo phì là 3,7%. Tỷ lệ phần bố mỡ của ĐTNC là 35%, nữ là 36,3%, nam là 31,6%
2. Một số yếu tố liên quan:
- Nam giới có nguy cơ TCBP cao gấp 2,56 lần so với nữ
- Đối tượng có trình độ THPT trở xuống có nguy cơ TCBP cao gấp 1,8 lần so với trình độ trung cấp trở lên.
- Đối tượng có nghề nghiệp là viên chức/công chức có nguy cơ TCBP cao gấp 3,49 lần so với đối tượng công nhân
- Đối tượng không HĐTL hoặc không HĐTL thường xuyên có nguy cơ TCBP cao gấp 3,2 lần
- Đối tượng có khẩu phần ăn thừa năng lượng so với nhu cầu khuyến nghị có nguy cơ TCBP cao gấp 4,6 lần so với đối tượng còn lại.
Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm
Tạp chí Y học lâm sàng
Journal of Science and Technology
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí Dinh dưỡng & Thực phẩm
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí Y học dự phòng
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí Y học Cộng đồng
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí Nghiên cứu y học
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|