It is crucial to study characteristics and determine associated factors with the severe progression of COVID-19 while the pandemic has been complicated yet. We aimed to describe the characteristics of COVID-19 vaccination, clinical classification and determine associated factors with the severe progression of disease among COVID-19 hospitalized patients within six months in 2022.
Methods: A study was conducted among 3,242 COVID-19 patients in two provincial hospitals in Bac Ninh and Nghe An from January to June 2022. A cross-sectional study was utilized to describe the prevalence of COVID-19 vaccination and clinical classification among COVID-19 patients. A nested case-control study was conducted among 771 COVID-19 patients who were classified into the non-severe group within the first 24 hours of admission. Cases were defined as progress to severe COVID-19 during hospitalization and controls were COVID-19 patients who did not progress to the severe stage of disease. We used an online research health record to collect patient’s information. Multivariable logistic regression was utilized to explore and decide associated factors with the progression to severe COVID-19 among participants.
Results: 30.1% of patients have not been vaccinated against COVID-19 yet and 60.6% of patients had been vaccinated at least two doses against COVID-19. The percentage of patients who were classified into the severe disease group at admission time was 20.0% and 4.8% of patients progressed to severe COVID-19 during hospitalization. Older age, male, pre-comorbidities such as diabetes, chronic cardiovascular or pulmonary disease increased the likelihood of progressing to severe COVID-19 disease. D-dimer ≥ 500 ng/ml, the percentage of lymphocytes in blood < 20%, and C-reactive protein (CRP) ≥ 5 mg/l were identified as prognostic factors for severe progression of COVID-19. At least two primary doses of the COVID-19 vaccine and combining at least one dose of AstraZeneca with other types of COVID-19 vaccine significantly decreased the chance of deteriorating COVID-19.
Conclusion: Our findings highlighted that it is important to monitor patients and early diagnoses with the help of prognostic factors. Moreover, widely supplying two primary and boosted doses of the COVID-19 vaccine for people, especially for the high-risk population is necessary.
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi, kiến thức, thực hành dinh dưỡng của bà mẹ và một số yếu tố liên quan tại một số huyện thuộc tỉnh Kon Tum năm 2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu sử dụng số liệu thứ cấp, đánh giá trên 360 cặp bà mẹ và trẻ dưới 5 tuổi tại 3 huyện Đắk Tô, Kon Plông và Tu Mơ Rông. Nghiên cứu sử dụng phương pháp đánh giá chỉ số nhân trắc và sử dụng bộ câu hỏi về kiến thức, thực hành dinh dưỡng của bà mẹ và các yếu tố kinh tế, xã hội của hộ gia đình. Các yếu tố liên quan thu thập thông qua bộ câu hỏi và đánh giá bằng các phân tích thống kê y học. Kết quả: Tỷ lệ suy dinh dưỡng tại 3 huyện khảo sát ở mức cao về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng, với tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi là 40,3%, tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân là 24,2% và tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm là 2,8%. Các bà mẹ đa phần có kiến thức và thực hành tốt về dinh dưỡng trong giai đoạn mang thai và nuôi con bằng sữa mẹ, nhưng chưa tốt về việc cho trẻ ăn dặm (chưa cho trẻ ăn đủ 5/8 nhóm thực phẩm và cần sử dụng dầu/mỡ trong chế độ ăn). Một số yếu tố liên quan với tình trạng suy dinh dưỡng được xác định bao gồm dân tộc, trình độ học vấn thấp của bà mẹ, gia đình đông con, gia đình gặp tình trạng thiếu lương thực nhiều tháng trong năm, gia đình có khoảng cách xa đến cơ sở y tế và bà mẹ có thực hành chưa tốt về việc cho trẻ ăn dặm. Kết luận: tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi tại các huyện nghiên cứu vẫn ở mức cao về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Chính quyền và các tổ chức liên quan cần chú ý tới các hoạt động giáo dục và hỗ trợ cho các gia đình nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi tại địa phương.
Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định tỷ lệ nhân viên Y tế mắc COVID-19 khi tham gia phòng chống dịch tại 07 tỉnh/thành năm 2021 – 2022 và các yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 62,6% (383/612) nhân viên Y tế từng được chẩn đoán mắc COVID-19 trong thời gian trực tiếp tham gia phòng chống dịch năm 2021 – 2022. Phần lớn nhân viên Y tế mắc COVID-19 trong bối cảnh tham gia chống dịch tại cơ quan đang công tác (75,8% ở năm 2021 và và 85,5% ở năm 2022). Tỷ lệ tiêm vắc xin phòng COVID-19 nói chung ở NVYT đạt mức cao và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm NVYT đã tiêm ≤ 2, 3 hay 4 mũi vắc-xin phòng COVID-19 (p<0,05). Kết quả phân tích đa biến cho thấy NVYT tham gia trực tiếp điều trị bệnh nhân COVID-19 tại bệnh viện, tái sử dụng PPE, trực tiếp điều trị BN COVID-19 ở cộng đồng, lấy mẫu COVID-19 ở cộng đồng, triển khai tiêm vắc xin COVID-19, hỗ trợ tiêm vắc xin COVID-19 có liên quan đến tỷ lệ mắc COVID-19 ở NVYT. Việc xác định tỷ lệ nhiễm COVID-19 trong nhân viên Y tế cũng như xác định một số yếu tố liên quan là một phần quan trọng để có biện pháp can thiệp nhằm giảm nhẹ hậu quả đối với sức khỏe của nhân viên Y tế trong đại dịch COVID-19.
Mục Tiêu: Mô tả thực trạng đáp ứng điều trị thuốc ARV và phân tích một số yếu tố liên quan đến đáp ứng điều trị với ARV của người bệnh trong dịch COVID-19 tại huyện Văn Chấn, Văn Yên tỉnh Yên Bái năm 2022.
Đối tượng: Người nhiễm HIV đang điều trị ARV tại hai cơ sở chăm sóc điều trị HIV/AIDS huyện Văn Yên và huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái tính đến 30 tháng 6 năm 2022
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả: Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 296 bệnh nhân được xét nghiệm tải lượng vi rút HIV trong vòng 12 nhằm theo dõi quá trình điều trị ARV. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có 94,3% người bệnh tham gia nghiên cứu có kết quả xét nghiệm tải lượng virus là không phát hiện hay dưới 50 bản sao/ ml. Tỷ lệ người bệnh có xét nghiệm tải lượng virus trong 12 tháng qua từ 50 đến dưới 200 bản sao/ml chiếm 3,7%. Như vậy, người bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi có kết quả xét nghiệm tải lượng virus trong 12 tháng qua dưới 200 bản sao/ml. Trong nghiên cứu của chúng tôi, toàn bộ người bệnh có thời gian điều trị trên 5 năm đều đáp ứng với điều trị ARV. Đối với người bệnh có thời gian điều trị là không quá 5 năm, tỷ lệ đáp ứng điều trị là 99,1%. Ở người bệnh có thời gian điều trị 6 đến 10 năm, tỷ lệ đáp ứng điều trị ARV là 98,4% và ở người bệnh có thời gian điều trị từ 11 đến 15 năm, tỷ lệ đáp ứng điều trị ARV giảm xuống 95,1%. Kết quả của nghiên cứu về vấn đề bệnh nhân gặp phải tác dụng phụ khi điều trị ARV sẽ có xu hướng không đáp ứng điều trị hơn so với những bệnh nhân không gặp những tác dụng phụ của thuốc.
Mục tiêu: xác định tỷ lệ phản ứng thông thường sau tiêm mũi 3 vắc xin phòng bệnh COVID-19 và phân tích một số yếu tố liên quan của người dân được tiêm chủng tại điểm tiêm chủng Trường Đại học Y Hà Nội năm 2022. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang được thực hiện trên 721 đối tượng nghiên cứu trong thời gian từ tháng 01/2022 đến tháng 10/2023. Kết quả nghiên cứu: tỷ lệ phản ứng sau tiêm mũi 3 là 60,9%, trong đó tỷ lệ phản ứng sau tiêm liều bổ sung là 57,8%, và sau tiêm liều nhắc lại là 64,0%, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Các phản ứng thông thường sau tiêm thường gặp là các phản ứng tại chỗ tiêm (45,8%), mệt mỏi (24,3%), sốt (16,2%), tăng cảm giác đau (15,3%). Sau tiêm liều bổ sung, các phản ứng tại chỗ (43,6%); mệt mỏi (20,8%), sốt (14,2%) và tăng cảm giác đau (13,3%). Sau tiêm liều nhắc lại, phản ứng tại chỗ cũng chiếm tỷ lệ cao nhất (47,9%), tiếp đến là mệt mỏi (27,7%), sốt (18,3%) và tăng cảm giác đau (17,2%). Các phản ứng sau tiêm chủ yếu xuất hiện trong vòng từ 1 đến 24 giờ và thường mất đi trong khoảng 24 giờ. Các phản ứng sau tiêm phổ biến ở các nhóm tuổi trẻ hơn, một số nhóm nghề nghiệp, nhóm có tiền sử phản ứng sau tiêm các mũi tiêm trước đó và nhóm có tiền sử bệnh mạn tính ở những người liều nhắc lại (p<0,05). Giới tính, tiền sử dị ứng, bệnh dị ứng và loại vắc xin đã tiêm liều cơ bản không có ý nghĩa thống kê với tỷ lệ phản ứng sau tiêm mũi 3 vắc xin phòng bệnh COVID-19. Kết luận: Tỷ lệ phản ứng sau tiêm mũi 3 vắc xin Comirnaty (Pfizer) là phổ biến, tuy nhiên hều hết là các phản ứng nhẹ và trung bình và thường tự mất đi trong 24 giờ. Các yếu tố nhóm tuổi, nghề nghiệp, tiền sử bệnh tật ở người trẻ tuổi tiêm liều nhắc lại và tiền sử dị ứng các mũi tiêm trước có mối liên quan có ý nghĩa thông kế với phản ứng sau tiêm mũi 3, liều bổ sung và liều nhắc lại, vì vậy cần chú ý khai thác kỹ tiền sử trong khám sàng lọc trước khi quyết định tiêm chủng.
Mục tiêu:
- Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh đái tháo đường type 2 đang điều trị nội trú tại khoa Thận – Nội tiết Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, năm 2023 - 2024.
- Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh đái tháo đường type 2 đang điều trị nội trú tại khoa Thận – Nội tiết Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, năm 2023-2024.
Phương pháp: Nghiên cứu trên 245 người bệnh ĐTĐ týp 2. Tình trạng dinh dưỡng được xác định theo BMI khuyến nghị cho người châu Á và MNA. Phân tích hồi quy logistic đơn biến được áp dụng để xác định một số yếu tố liên quan đến TC-BP.
Kết quả: Tình trạng dinh dưỡng theo BMI có tỷ lệ SDD, bình thường, thừa cân, béo phì lần lượt là: 8,6%; 53,9%; 25,7%;11,8%. Theo MNA có tỷ lệ bình thường, có nguy cơ SDD và SDD lần lượt là 18%; 62,4% và 19,6%. Tăng khả năng bị TC-BP ở nhóm người có học vấn trên trung học phổ thông (THPT) so với nhóm có học vấn từ THPT trở xuống (OR = 5,8; p<0,001), tăng khả năng bị TC-BP ở nhóm người có rối loạn lipid máu so với nhóm không rối loạn lipid máu (OR=7,0; p<0,001). Tăng khả năng TC –BP ở nhóm có uống rượu bia so với nhóm không uống rượu bia ( OR = 5,3; p<0,001). Tăng khả năng TC-BP ở nhóm không tập thể dục so với nhóm có tập thể dục ( OR =2,2;p<0,05)
Kết luận: Tỷ lệ SDD và TC- BP theo BMI là 8,6% và 37,5%. Tỷ lệ nguy cơ SDD và SDD theo MNA là 62,4% và 19,6%. Các yếu tố liên quan đến TC-BP là trình độ học vấn trên THPT, có rối loạn lipid máu, uống rượu bia, không tập thể dục.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 311 bà mẹ có con từ 0-6 tháng tuổi tại Hà Nội năm 2020 -2021 nhằm mô tả tình trạng dinh dưỡng trong quá trình có thai và xác định một số yếu tố liên quan đến trạng dinh dưỡng trong quá trình có thai của người mẹ . Kết quả:
1. Tình trạng dinh dưỡng trong quá trình có thai:
- Trước khi có thai, bà mẹ có cân nặng TB là 50,3kg, chiều cao TB là 156,3cm, BMI trung bình là 20,6 ± 2,3kg/m2, trong đó 15,5% bà mẹ CED và 3,5% bà mẹ TC-BP (BMI ≥ 25).
- Mức tăng cân TB của bà mẹ trong cả thai kỳ là 12,4 ± 4,2kg. Có 62,7% bà mẹ tăng cân khi có thai ngoài mức KN của IOM trong đó tỷ lệ tăng cân dưới mức KN là 44,4% và trên mức KN là 18,3%. Chỉ có 37,3% bà mẹ có tăng cân đúng theo KN của IOM. Khoảng 2/3 (66,7%) bà mẹ có BMI<18,5kg/m2 trước khi mang thai không đáp ứng được mức tăng cân tối thiểu theo KN của IOM.
- Trẻ có CNSS trung bình đạt 3226,1 ± 23,8g trong đó có 3,9% trẻ sơ sinh có cân nặng <2500g và có 4,5% trẻ có cân nặng ≥4000g. Tỷ lệ trẻ sinh trước 37 tuần thai chiếm 6,8%.
2. Một số yếu tố liên quan
- Một số yếu tố có liên quan độc lập đến tình trạng tăng cân thai kỳ không đúng theo KN của IOM bao gồm: BMI bà mẹ <18,5kg/m2 trước khi có thai (ORhiệu chỉnh=2,2; 95% CI: 1,1 - 4,7; p<0,05) và kinh tế hộ gia đình ≤ trung bình (ORhiệu chỉnh=2,4; 95% CI: 1,01 – 5,7; p<0,05).
- Các yếu tố có liên quan độc lập với tình trạng tăng cân trong thai kỳ dưới mức KN của IOM bao gồm: BMI bà mẹ <18,5kg/m2 trước khi có thai (ORhiệu chỉnh =3,4; 95%CI: 1,7 - 6,7; p <0,001); kinh tế hộ gia đình ở mức nghèo/cận nghèo (ORhiệu chỉnh = 3,8; 95% CI: 1,01 – 14,7; p <0,05); và tuổi của bà mẹ ≥ 30 tuổi (ORhiệu chỉnh = 1,9; 95%CI: 1,2 – 3,2; p <0,05).
- Cân nặng, chiều cao của bà mẹ trước khi có thai và tuần tuổi thai khi sinh có mối tương quan tuyến tính thuận chiều với CNSS của trẻ.
Tạp chí Y học Việt Nam
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên trường Đại học Y Hà Nội năm học 2020- 2021 trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và một số yếu tố liên quan đến trầm cảm. Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang trên 1325 sinh viên trường Đại học Y Hà Nội, công cụ để đánh giá trầm cảm là thang đo DASS 21. Các thông tin khác được thu nhập bằng bộ câu hỏi tự soạn. Kết quả cho thấy có 57,1% sinh viên có nguy cơ mắc trầm cảm. Trong đó trầm mức độ nhẹ: 16,5%, trầm cảm mức độ vừa: 25,1%, trầm cảm mức độ nặng: 7,1%, rất nặng: 8,4%. Các yếu tố liên quan đến nguy cơ trầm cảm ở sinh viên là: khó khăn với tài chính, khó khăn với học trực tuyến và Covid-19: lo lắng vì dịch bệnh đang lây lan rộng, lo lắng rằng mình có khả năng mắc bệnh, sợ hãi về nhà vì có khả năng lây nhiễm bệnh cho gia đinh. Sinh viên tích cực rèn luyện, nâng cao sức khoẻ, có thời gian biểu khoa học. Nhà trường quan tâm, hỗ trợ sinh viên khó khăn về tài chính, tư vấn học tập.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định thực trạng sàng lọc bệnh tan máu bẩm sinh (thalassemia) và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến sàng lọc căn bệnh này ở phụ nữ mang thai (PNMT) đến khám tại bệnh viện. Đối tượng và phương pháp: sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, định lượng kết hợp với định tính. Tổng số mẫu gồm 550 thai phụ đến khám tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương từ tháng 4/2020 đến tháng 3/2021, được sàng lọc bằng xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu ngoại vi, điện di huyết sắc tố và xét nghiệm đột biến gen thalassemia. 17 thai phụ được phỏng vấn để tìm hiểu nhận thức về một số yếu tố liên quan đến sàng lọc bệnh thalassemia. Kết quả: tỷ lệ sàng lọc thalassemia dương tính ở thai phụ là 12,7%. Thể α-thalassemia chiếm tỷ lệ lớn nhất là 67,1%, thể β-thalassemia chiếm tỷ lệ là 12,9%. Bệnh lý huyết sắc tố E và các thể phối hợp khác cũng được phát hiện. Yếu tố nguy cơ chủ yếu ảnh hưởng đến tỷ lệ sàng lọc bệnh thalassemia bao gồm dân tộc, tiền sử sản khoa và tình trạng thiếu máu. Bên cạnh đó, các yếu tố về gia đình và văn hóa, xã hội cũng ảnh hưởng tới quyết định của thai phụ. Hầu hết, PNMT không có hiểu biết về bệnh thalassemia nên họ rất lo lắng cho sức khỏe của thai nhi và những lần sinh con tiếp theo. Kết luận: từ những phát hiện trên cho thấy, nhận thức của PNMT về bệnh thalassemia còn thấp, họ chưa quan tâm đến việc sàng lọc sớm bệnh thalassemia. Vì vậy, cần tuyên truyền nâng cao nhận thức cho thai phụ và gia đình về bệnh thalassemia
Tạp chí Y học Việt Nam
Phá thai lặp lại ở việt nam cũng như nhiều nước trên thế giới còn rất phổ biến mặc dù tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ ảnh hưởng không chỉ đến sức khỏe về thể chất mà còn sức khỏe về tâm thần. Nghiên cứu được thực hiện ở bệnh viện phụ sản Hà Nội nhằm mô tả thực trạng há thai lặp lại và một số yếu tố liên quan ở nhóm phụ nữ tới phá thai. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang phỏng vấn trực tiếp trên 477 phụ nữ phá thai cho kết quả: tỷ lệ phá thai lặp lại là 22,2%. Các yếu tố liên quan cho rằng: nghề nghiệp, tuổi càng cao càng có nguy cơ phá thai lặp lại cao. Các yếu tố về gia đình và xã hội có đủ 2 con trở lên, có con trai, việc sử dụng bao cao su,chồng/ người yêu là người có ảnh hưởng nhất đến quyết định có thai và mong muốn có thai trong tương lai có liên quan đến tình trạng phá thai lặp lại. Hơn 1% số phụ nữ phá thai lặp lại và có liên quan đến mối gia đình và xã hội. Vì vậy cần có các phương pháp can thiệp thích hợp để làm giảm tỷ lệ phá thai lặp lại.
Tạp chí Y học cộng đồng
Mục tiêu: Mô tả thực trạng hồ sơ bệnh án (HSBA) nội trú và một số yếu tố liên quan tại khoa Nội tổng hợp - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2021. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, kết hợp định lượng và định tính, tại khoa Nội tổng hợp - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trên 300 HSBA ngẫu nhiên và 07 phỏng vấn sâu và 03 thảo luận nhóm với nhân viên y tế. Kết quả: Tỉ lệ hồ sơ bệnh án ghi đạt của toàn bộ hồ sơ bệnh án là 74,7%. Yếu tố cá nhân là nhận thức của nhân viên y tế (NVYT) về HSBA ảnh hưởng đến ghi chép HSBA; công tác kiểm tra, giám sát; công tác bình bệnh án; chưa tổ chức được các buổi tập huấn hay hướng dẫn công tác làm HSBA; chưa có các chế tài phù hợp. Yếu tố hạn chế được chỉ ra là lưu lượng người bệnh đông, nguồn nhân lực; phần hành chính trong HSBA. Kết luận: Nghiên cứu chỉ ra được một số yếu tố ảnh hưởng đến việc ghi chép HSBA của NVYT.
Tạp chí Y học cộng đồng
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến thái độ về an toàn người bệnh (ATNB) của nhân viên y tế (NVYT) tại BVĐK tỉnh Ninh Bình, năm 2021. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 343 NVYT được lựa chọn ngẫu nhiên, hiện đang làm việc trong BVĐK tỉnh Ninh Bình, từ tháng 11/2021 – 12/2021. Nghiên cứu sử dụng bộ thang đo SAQ phiên bản rút gọn năm 2006 của Đại học Texas được Việt hoá để đo lường thái độ ATNB. Nghiên cứ sử dụng OR, 95% CI để xác định mối liên quan giữa thái độ ATNB và một số yếu tố liên quan. Kết quả: NVYT có tỷ lệ và điểm trung bình về thái độ ATNB cao nhất ở mục mục “Sự hài lòng công việc” (75,8%, 4,0 ± 0,6) và điều kiện làm việc (62,97%, 3,8 ± 0,6). Các NVYT có trình độ chuyên môn là sau đại học có điểm thái độ ATNB cao hơn gấp 6,8 lần (95% CI: 1,8 - 25,6) so với các đối tượng có trình độ chuyên môn là Đại học. Ngoài ra, NVYT tuyển dụng hợp đồng có thái độ ATNB cao hơn gấp 3,6 lần (95% CI: 1,4 - 9,2) so với NVYT thuộc biên chế. Kết luận: Nghiên cứu đã chỉ ra Bệnh viện nên đào tạo liên tục để củng cố thái độ ATNB của NVYT, nhất là nhóm biên chế và có trình độ đại học
Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Thảo, Nguyễn Ngọc Anh, Phạm Thị Quân, Phan Thị Mai Hương, Nguyễn Quốc Doanh, Tạ Thị Kim Nhung, Lương Mai Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Thị Liên Hương, Nguyễn Thị Quỳnh
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện nhằm phân tích một số yếu tố liên quan đến rối loạn sức khỏe tâm thần do đại dịch COVID-19 của cán bộ y tế năm 2021. Nghiên cứu được tiến hành trên 1603 nhân viên y tế tại Hà Nội, Thái Bình, Đà Nẵng và Quảng Nam. Phân tích nhân tố được áp dụng để xác định 3 lĩnh vực: sự ám ảnh, lảng tránh và phản ứng thái quá. Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng điểm về sức khỏe tâm thần là 23,1 ± 16,05. Điểm trung bình của sự ám ảnh, sự lảng tránh và phản ứng thái quá lần lượt là 10,2 ± 6,39; 7,03 ± 5,88 và 5,9 ± 4,97. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tổng điểm và điểm về sự lảng tránh giữa các tỉnh nghiên cứu trong đó cao nhất ở Hà Nội, rồi đến Đà Nẵng, Quảng Nam và thấp nhất ở Thái Bình (p < 0,05). Một số yếu tố như giới tính, tuổi đời, có sống một mình không và nguy cơ phơi nhiễm với COVID-19 có liên quan đến sức khỏe tâm thần của nhân viên y tế trong đại dịch COVID-19
Tạp chí nghiên cứu Y học
Việt Nam đang dần bước vào giai đoạn già hóa dân số nên vấn đề chất lượng cuộc sống của nhóm tuổi lão hóa là vấn đề cần được quan tâm. Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của người cao tuổi, tuy nhiên lão hóa là một quá trình, bắt đầu ngay từ giai đoạn tuổi trung niên. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục đích mô tả thực trạng chất lượng cuộc sống của người dân từ 40 tuổi trở lên tại Hà Nam, từ đó phân tích các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người dân. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện bằng việc phỏng vấn trực tiếp 847 đối tượng từ 40 tuổi trở lên tại Hà Nam, dựa trên bộ câu hỏi cấu trúc có sẵn. Kết quả cho thấy tỉ lệ người dân đánh giá chất lượng cuộc sống ở mức tốt trở lên đạt 65,5%. Chất lượng cuộc sống có mối tương quan thuận với tiếp cận truyền thông giáo dục sức khỏe từ nhân viên y tế và hỗ trợ xã hội từ bạn bè. Ngược lại, đối tượng mắc bệnh mạn tính, lo âu, stress có chất lượng cuộc sống thấp hơn
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến thái độ về an toàn người bệnh (ATNB) của nhân viên y tế (NVYT) tại BVĐK Tỉnh Ninh Bình, năm 2021.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 343 NVYT được lựa chọn ngẫu nhiên, hiện đang làm việc trong BVĐK tỉnh Ninh Bình, từ tháng 11/2021 – 12/2021. Nghiên cứu sử dụng bộ thang đo SAQ phiên bản rút gọn năm 2006 của Đại học Texas được Việt hoá để đo lường thái độ ATNB. Nghiên cứ sử dụng OR, 95% CI để xác định mối liên quan giữa thái độ ATNB và một số yếu tố liên quan.
Kết quả: NVYT có tỷ lệ và điểm trung bình về thái độ ATNB cao nhất ở mục mục “Sự hài long công việc” (75,8%, 4,0 ± 0,6) và điều kiện làm việc (62,97%, 3,8 ± 0,6). Các NVYT có trình độ chuyên môn là sau đại học có điểm thái độ ATNB cao hơn gấp 6,8 lần (95% CI: 1,8 - 25,6) so với các đối tượng có trình độ chuyên môn là Đại học. Ngoài ra, NVYT tuyển dụng hợp động có thái độ ATNB cao hơn gấp 3,6 lần (95% CI: 1,4 - 9,2) so với NVYT thuộc biên chế.
Kết luận: Nghiên cứu đã chỉ ra Bệnh viện nên đào tạo liên tục để củng cố thái độ ATNB của NVYT, nhất là nhóm biên chế và có trình độ đại học.
Mục tiêu: mô tả thực trạng hồ sơ bệnh án (HSBA) nội trú và một số yếu tố liên quan tại khoa Nội tổng hợp - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2021
Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang, kết hợp định lượng và định tính, tại khoa Nội tổng hợp - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trên 300 HSBA ngẫu nhiên và 07 phỏng vấn sâu và 03 thảo luận nhóm với nhân viên y tế.
Kết quả: Tỉ lệ hồ sơ bệnh án ghi đạt của toàn bộ hồ sơ bệnh án là 74,7%. Yếu tố cá nhân là nhận thức của NVYT về HSBA ảnh hưởng đến ghi chép HSBA; Công tác kiểm tra, giám sát; công tác bình bệnh án; chưa tổ chức được các buổi tập huấn hay hướng dẫn công tác làm HSBA; chưa có các chế tài phù hợp. Yếu tố hạn chế được chỉ ra là lưu lượng người bệnh đông, nguồn nhân lực; phần hành chính trong HSBA.
Kết luận: Nghiên cứu chỉ ra được một số yếu tố ảnh hưởng đến việc ghi chép HSBA của NVYT
Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu 1: Mô tả kiến thức, thái độ về kiểm soát nhiễm khuẩn cơ bản của sinh viên, học viên học tập tại bệnh viện Nhi Trung ương năm 2021 - 2022.
Mục tiêu 2: Mô tả một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về kiểm soát nhiễm khuẩn cơ bản của sinh viên, học viên học tập tại bệnh viện Nhi Trung ương năm 2021 - 2022.
Đối tượng: 412 sinh viên (sinh viên y khoa, sinh viên điều dưỡng), học viên (bác sĩ, điều dưỡng) đến thực hành tại bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 02/2022 đến tháng 03/2022
Phương pháp nghiên cứu: dịch tễ học mô tả cắt ngang, nhằm mục đích đánh giá kiến thức, thái độ về kiểm soát nhiễm khuẩn cơ bản và các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về kiểm soát nhiễm khuẩn cơ bản trên nhóm đối tượng học viên, sinh viên đến thực hành tại bệnh viện Nhi Trung ương.
Tóm tắt kết quả: Tỷ lệ học viên, sinh viên có kiến thức tốt về kiểm soát nhiễm khuẩn chưa cao, chỉ chiếm 46,6%. Nhóm đối tượng đã được đào tạo về kiểm soát nhiễm khuẩn có điểm trung bình kiến thức cao hơn nhóm chưa được đào tạo là 1,5 điểm và thời gian đào tạo trong vòng 6 tháng trở lại đây thì điểm trung bình cao hơn nhóm đã đào tạo trên 6 tháng khoảng 0,9 điểm. Học viên có kiến thức về kiểm soát nhiễm khuẩn tốt gấp 3 lần so với nhóm sinh viên. Trong nhóm học viên, đối tượng có kinh nghiệm làm việc dưới 5 năm lại có kiến thức về kiểm soát nhiễm khuẩn tốt hơn so với nhóm có kinh nghiệm làm việc trên 5 năm, gấp 1,87 lần (95% CI 1,24 - 2,82).
Mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ và lâm sàng của bệnh nhân COVID-19 tại Việt Nam năm 2020,
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân COVID-19 tại
Việt Nam năm 2020.
Đối tượng: Các bệnh nhân tại Việt Nam được xác định là dương tính với vi rút SARS-CoV-2 trong năm 2020.
Phương pháp nghiên cứu:
1. Thời gian, địa điềm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành với dữ liệu của ca bệnh trên toàn quốc.
Thời gian: Các ca bệnh COVID-19 được Bộ Y tế công bố từ 1/1/2020 đến hết ngày
31/12/2020
2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu loạt bệnh.
3. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: Phương pháp chọn mẫu toàn bộ 1465 bệnh nhân
COVID-19 được Bộ Y tế công bố trong năm 2020, được tính từ bệnh nhân đầu tiên (BN001)
đến bệnh nhân cuối cùng được công bố trong ngày 31/12/2020 (BN1465).
Kết quả chính: Bệnh COVID-19 tại Việt Nam trong năm 2020 đã được khống chế mạnh mẽ với chỉ 1465 trường hợp được ghi nhận, thấp hơn nhiều so với thế giới. Đặc điểm chính của đợt dịch này là các vụ xâm nhập, các trường hợp dương tính chủ yếu là nhập cảnh kèm theo đó là một số ổ bùng phát tại các tỉnh, thành phố lớn và thường được khống chế ngay. Phần lớn các trường hợp nhiễm SARS-CoV-2 không có triệu chứng tại thời điểm được phát hiện, các bệnh nhân có triệu chứng thường có các biểu hiện giống như bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng. Thời gian điều trị tới khi âm tính hoàn toàn trung bình là 29 ngày. Bệnh nhân có xét nghiệm tái dương tính hoặc cần hỗ trợ hô hấp trong quá trình điều trị là yếu tố làm tăng thời gian nằm viện. Trong giai đoạn này, bệnh có tỷ lệ chết/mắc là 3% và những bệnh nhân tử vong chủ yếu thuộc nhóm người cao tuổi (trên 40 tuổi), có bệnh lý nền và đều là người Việt Nam. Do liên tục đánh giá tình trạng nhiễm vi rút ở các bệnh nhân dù đã khỏi, nghiên cứu ghi nhận tỉ lệ đáng kể bệnh nhân sau khi điều trị khỏi lần đầu có xét nghiệm PCR tái dương tính (2,5%). Bệnh nhân có triệu chứng tại thời điểm phát hiện có nguy cơ tái dương tính cao hơn, trong khi đó người có quốc tịch Việt Nam ít gặp nguy cơ này.
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ em dân tộc H’Mông dưới 5 tuổi tại hai xã Dế Xu Phình và La Pán Tẩn thuộc huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái giai đoạn 2021-2022 và một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng. Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang kết hợp phương pháp định tính và định lượng trên 437 trẻ em sinh sống tại hai xã. Kết quả cho thấy có 59% trẻ có suy dinh dưỡng thấp còi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở thể nhẹ cân và thấp còi có xu hướng tăng lên theo độ tuổi, thấp nhất ở nhóm 0 - 12 tháng tuổi (34,3%). Nhóm 25-36 tháng tuổi có tỷ lệ trẻ thấp còi cao nhất (75,4%). Các yếu tố liên quan đến nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi là: Trình độ học vấn của mẹ, thiếu đa dạng thực phẩm do vấn đề kinh tế và thực hành bú mẹ tới 24 tháng tuổi. Để cải thiện dinh dưỡng cần tiếp tục cải thiện chất lượng của các cơ sở y tế tuyến xã, hỗ trợ kiến thức về sinh kế và sản xuất cho các hộ gia đình; hợp tác, hỗ trợ thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội và y tế được thực hiện tại địa phương.
Nghiên cứu trên 340 cặp trẻ sơ sinh và bà mẹ tại Bệnh viện Phụ sản trung ương, chúng tôi đưa ra một số kết luận như sau:
1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ sơ sinh:
- Cân nặng và chiều dài trung bình của trẻ sơ sinh lần lượt là:
3102±459 gam, 49,5±2 cm.
- Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân và thấp còi lần lượt là 14,1% và 12,3%.
2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ sơ sinh:
* Các yếu tố thuộc về bà mẹ:
- Tuổi, chiều cao, tình trạng thiếu máu và albumin huyết thanh của bà mẹ liên quan chặt chẽ tới tình trạng nhẹ cân sơ sinh.
- Tuổi, chiều cao, tình trạng thiếu máu và tiền sử sinh non của bà mẹ liên quan chặt chẽ tới tình trạng thấp còi sơ sinh.
* Yếu tố thuộc về trẻ:
- Tuổi thai khi sinh là yếu tố liên quan tới tình trạng sơ sinh nhẹ cân và thấp còi. Tuổi thai càng nhỏ thì nguy cơ nhẹ cân và thấp còi khi sinh của trẻ càng lớn.
Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 7/2021 đến tháng 6/2022 trên 426 sinh viên Y đa khoa (từ năm nhất đến năm 6) đang học tại khoa Y trường đại học Buôn Ma Thuột nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng và mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của sinh viên. Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả nghiên cứu cho thấy chiều cao trung bình ở nam là 170,0±5,8 cm, ở nữ là 157,5±5,3 cm; cân nặng trung bình ở nam là 65,0±11,9 kg, ở nữ là 49,9±7,4 kg; BMI trung bình ở nam là 22,5±3,7 kg/m2, ở nữ là 20,1±2,7 kg/m2. Tỷ lệ sinh viên bị thiếu năng lượng trường diễn là 20% trong đó sinh viên nam là 4.2% và sinh viên nữ là 15.7%. Tỷ lệ sinh viên bị thừa cân/béo phì chung là 10.33% trong đó sinh viên nam là 7.5% và sinh viên nữ là 2.8%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Ngoài ra nghiên cứu còn cho thấy các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của sinh viên là điều kiện kinh tế gia đình, trình độ học vấn của mẹ và tần suất tiêu thụ thực phẩm như cá nạc, sữa.
Mục tiêu: 1.Xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở học sinh trung học phổ thông tại một huyện tỉnh Sơn La, năm 2020. 2.Phân tích một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở học sinh trung học phổ thông tại một huyện tỉnh Sơn La, năm 2020.
Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Học sinh THPT từ khối 10 đến khối 12 (từ 15–17 tuổi); Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang.
Kết quả nghiên cứu:
1. Tỷ lệ SDD thấp còi ở học sinh tại hai trường THPT Cò Nòi và Mai Sơn thuộc huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
- Tỷ lệ SDD thấp còi ở học sinh THPT Cò Nòi và Mai Sơn từ 15-17 tuổi là 11,8%; SDD thấp còi mức độ TB là 11,0%; mức độ nặng là 0,8%.
- Tỷ lệ SDD thấp còi ở học sinh nữ là 14,3% cao hơn học sinh nam là 9,0%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Trong đó học sinh nữ thuộc lớp tuổi 17 có tỷ lệ SDD thấp còi là 18,9%, cao hơn học sinh nữ thuộc lớp tuổi 15 và 16 lần lượt là 9,8% và 14,6% (p<0,05).
- Học sinh người dân tộc H’mông có tỷ lệ SDD thấp còi cao nhất chiếm 37,3%; học sinh người dân tộc Kinh có tỷ lệ SDD thấp còi thấp nhất là 9,8%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
2. Một số yếu tố liên quan tới tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi của học sinh.
- Mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng SDD thấp còi ở học sinh với giới tính của học sinh, tuổi và hoạt động thể lực; và dân tộc của người mẹ.
- Học sinh có mẹ là người dân tộc thiểu số có nguy cơ SDD thấp còi cao gấp 1,69 lần học sinh có mẹ là dân tộc Kinh (p < 0,05).
- Nữ giới có nguy cơ SDD thấp còi cao gấp 1,68 lần nam giới (p < 0,05).
- Học sinh không hoặc ít hoạt động thể lực có nguy cơ SDD thấp còi cao gấp 2,32 lần những học sinh hoạt động thể lực mức TB trở lên (p < 0,01).
* Mục tiêu:
1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ 24-59 tháng tuổi tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang năm 2020.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ 24-59 tháng tuổi tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang năm 2020.
* Đối tượng:
- Trẻ em từ 24-59 tháng tuổi thuộc huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
- Bố mẹ hoặc người chăm sóc chính của trẻ.
* Phương pháp nghiên cứu:
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.3.2. Phương pháp chọn mẫu
2.3.2.1. Cỡ mẫu
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng cho một tỷ lệ:
Trong đó:
- n: số đối tượng cần điều tra.
- p: tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em < 5 tuổi tại tỉnh Tuyên Quang năm 2018 là 25,3%6.
- d: khoảng sai lệch chấp nhận được về tỷ lệ suy dinh dưỡng từ nghiên cứu so với tỷ lệ của cộng đồng. Chọn d = 0,05.
- : ở mức ý nghĩa thống kê 95% = 0,05.
- Z(1-/2¬): giá trị Z thu được từ bảng Z ứng với giá trị = 0,05 là 1,96.
- Thay vào ta được n=291. Tính toán ta được cỡ mẫu tối thiểu là 291 trẻ/cụm x 10 cụm/trường làm tròn 2910 trẻ. Thực tế đã điều tra 2929 trẻ.
2.3.2.2. Cách chọn mẫu
Phương pháp chọn mẫu: Theo nhiều giai đoạn
- Chọn tỉnh, huyện nghiên cứu: Từ tình hình thực tế trong khuôn khổ hoạt động của Chương trình Chiến lược Quốc gia Dinh dưỡng chọn có chủ đích huyện Yên Sơn của tỉnh Tuyên Quang.
- Chọn trường/xã: Chọn chủ đích 10 trường mầm non trong số 28 trường/xã của huyện (trường Tứ Quận, Lang Quán, Tiến Bộ, Thái Bình, Tân Long, Thắng Quân, Hoàng Khai, Mỹ Bằng, Nhữ Hán, Nhữ Khê) bao quanh thành phố Tuyên Quang.
- Chọn đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ trẻ 24 – 59 tháng tuổi đang theo học tại trường.
- Kết quả chính:
1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ 24-59 tháng tuổi tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang năm 2020.
- Các số đo nhân trắc trung bình của trẻ: cân nặng trung bình trẻ trai 24-35 tháng tuổi là 12,3 ± 1,38 kg và trẻ gái là 11,9 ± 1,34 kg; chiều cao trung bình trẻ trai là 88,0 ± 3,67 cm và chiều cao trung bình trẻ gái là 87,3 ± 4,08 cm. Cân nặng trung bình trẻ trai 36-47 tháng tuổi là 14,2 ± 1,71 kg và trẻ gái là 13,5 ± 1,63 kg; chiều cao trung bình trẻ trai là 95,6 ± 4,19 cm và chiều cao trung bình trẻ gái là 93,9 ± 3,77 cm. Cân nặng trung bình trẻ trai 48-59 tháng tuổi là 16,0 ± 2,21 kg và trẻ gái là 15,4 ± 2,17 kg; chiều cao trung bình trẻ trai là 102,6 ± 4,61 cm và chiều cao trung bình trẻ gái là 101,3 ± 4,48 cm. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở chỉ số cân nặng và chiều cao theo từng nhóm tuổi ở trẻ trai và trẻ gái (p<0,001).
- Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân là 6,9% (SDD thể nhẹ cân mức độ vừa 6,6%; SDD thể nhẹ cân mức độ nặng 0,3%); SDD nhẹ cân cao nhất là trẻ có mẹ là người dân tộc Cao Lan (8,8%), Dao (8,2%); trẻ thuộc hộ kinh tế nghèo và cận nghèo 13,4%. Tỷ lệ SDD thấp còi là 14,2% (SDD thể thấp còi mức độ vừa 12,6%, mức độ nặng 1,6%), ở ngưỡng trung bình có YNSKCĐ. Tỷ lệ SDD thấp còi cao nhất là trẻ có mẹ là người dân tộc Dao là 17,5%; trẻ thuộc hộ kinh tế nghèo và cận nghèo 21,9%; đồng thời cao nhất là ở trường Lang Quán (20,8%) tiếp theo là trường Nhữ Hán (18,2%). Tỷ lệ SDD thể gầy còm là 1,8% (SDD thể gầy còm mức độ vừa 1,6%, mức độ nặng 0,2%). Tỷ lệ thừa cân, béo phì là 1,9%.
2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ 24-59 tháng tuổi tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang năm 2020.
- SDD nhẹ cân: Những trẻ thuộc hộ gia đình “nghèo và cận nghèo” có nguy cơ SDD nhẹ cân cao gấp 2,14 lần những trẻ hộ gia đình kinh tế “bình thường” (p<0,001). Những trẻ có mẹ nghề nghiệp “làm ruộng” có nguy cơ SDD nhẹ cân cao gấp 1,67 lần những trẻ có mẹ làm nghề nghiệp khác (p<0,01). Những trẻ có cân nặng sơ sinh <2500g có nguy cơ SDD nhẹ cân cao gấp 2,98 lần những trẻ có cân nặng sơ sinh ≥ 2500g (p<0,001).
- SDD thấp còi: những trẻ thuộc hộ gia đình “nghèo và cận nghèo” có nguy cơ SDD thấp còi cao gấp 1,62 lần những trẻ hộ gia đình kinh tế “bình thường” (p<0,01). Những trẻ có mẹ nghề nghiệp “làm ruộng” có nguy cơ SDD thấp còi cao gấp 1,54 lần những trẻ có mẹ làm nghề nghiệp khác (p<0,001). Những trẻ có cân nặn
I. Mục tiêu:
1.Đánh giá tình trạng dinh dưỡng người bệnh Đái tháo đường typ 2 điều trị tại Bệnh viện đa khoa khu vực Đặng Thùy Trâm năm 2021 - 2022.
2.Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh Đái tháo đường typ 2 điều trị tại Bệnh viện đa khoa khu vực Đặng Thùy Trâm năm 2021 - 2022.
II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu và thời gian thu thập số liệu
Người bệnh từ 20 tuổi được chẩn đoán xác định Bệnh Đái tháo đường typ 2 điều trị nội trú tại Khoa Nội tổng hợp Bệnh viện đa khoa khu vực Đặng Thùy Trâm.
2. Phương pháp
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1/2021 đến tháng 5/2022.
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
- Cỡ mẫu: Áp dụng công thức ước lượng 1 tỷ lệ trong quần thể
Trong đó
n: Số lượng mẫu ( bệnh nhân cần điều tra).
: Hệ số tin cậy, chọn hệ số tin cậy là 95%, như vậy = 1,962
p: p = 0,202 tỷ lệ bệnh nhân ĐTĐ bị TC, BP tại Bệnh viện trung ương Quảng Nam 4.
: Khoảng sai lệch tương đối. Chọn = 0,3.
Tính cỡ mẫu n = 169, làm tròn là 170.
Cỡ mẫu điều tra khẩu phần: Áp dụng công thức
N =
Tính được cỡ mẫu khẩu phần tối thiểu là 58. Thực tế điều tra được 87 khẩu phần.
Chọn mẫu
Lấy mẫu thuận tiện những người bệnh đúng tiêu chuẩn lựa chọn cho đến khi đủ cỡ mẫu. Chọn mẫu điều tra khẩu phần: cứ 1 bệnh nhân thu thập số liệu đến bệnh nhân thứ 2 tiến hành phỏng vấn khẩu phần 24h.
Phương pháp đánh giá
- Các số đo cân nặng, chiều cao của bệnh nhân được thu thập khi bắt đầu nhập viện. Đánh giá và phân loại chỉ số khối cơ thể BMI theo IDI &WPRO BMI (kg/m2): Thiếu năng lượng trường diễn (BMI < 18,5); Bình thường (18,5 ≤ BMI ≤ 22,9); TC, BP (BMI ≥ 23).
- Phỏng vấn điều tra hành vi lối sống và thói quen ăn uống theo bộ câu hỏi thiết kế sẵn.
- Điều tra khẩu phần 24 giờ: Điều tra khẩu phần ăn uống trước khi vào viện 1 ngày của đối tượng nghiên cứu.
3. Xử lý số liệu
- Số liệu được làm sạch và nhập bằng phần mềm Epidata 3.1, được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. Sử dụng các test thống kê trong y học. Mức ý nghĩa thống kê p < 0,05.
- Số liệu điều tra khẩu phần được quy đổi từ thức ăn chín sang lượng thức ăn sống sạch theo bảng quy đổi của Viện Dinh dưỡng. Sử dụng phần mềm Eiyokun để tính giá trị dinh dưỡng cho khẩu phần 24h.
4. Đạo đức trong nghiên cứu
Đối tượng được giải thích đầy đủ về mục đích nghiên cứu và tự nguyện tham gia. Các thông tin thu thập được từ các đối tượng nghiên cứu chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
III. Kết quả
Nghiên cứu cắt ngang trên 170 người bệnh Đái tháo đường typ 2 điều trị tại Khoa Nội tổng hợp Bệnh viện đa khoa khu vực Đặng Thùy Trâm. Kết quả cho thấy tình trạng dinh dưỡng bình thường theo BMI là 58,2%; thừa cân, béo phì (TC, BP) là 32,4%; thiếu năng lượng trường diễn (CED) là 9,4%. Kết quả nghiên cứu tìm thấy một số yếu tố liên quan tới tình trạng thừa cân, béo phì có ý nghĩa thống kê (p < 0,05): Nhóm ăn đêm có nguy cơ TC, BP gấp 1,9 (95%CI:1,01 – 3,74) lần so với nhóm không ăn đêm; nhóm ăn ngọt có nguy cơ TC, BP gấp 2,0 (95%CI:1,05 – 3,89) lần so với nhóm không ăn ngọt; nhóm mắc bệnh Tim mạch/THA kèm theo với ĐTĐ typ 2 có nguy cơ TC, BP gấp 2,4 (95%CI:1,24 – 4,81) lần so với nhóm không không mắc bệnh; nhóm tập thể lực không đạt có nguy cơ TC, BP gấp 2,0 (1,02 – 3,88) lần so với nhóm tập thể dục đạt; nhóm có năng lượng ăn vào không đạt nhu cầu khuyến nghị có nguy cơ TC, BP gấp 6,5 (1,78 - 24,10) so với nhóm ăn đạt nhu cầu khuyến nghị; nhóm sử dụng bánh kẹo ngọt thường xuyên có nguy cơ TC, BP hơn so với nhóm không sử dụng bánh kẹo ngọt thường xuyên.
|