1. Mục tiêu
1. Mô tả thực trạng nguồn nhân lực y tế tại Bệnh viện đa khoa Đông Anh, thành phố Hà Nội giai đoạn 2019-2023.
2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng tới nguồn nhân lực y tế tại bệnh viện đa khoa Đông Anh, thành phố Hà Nội giai đoạn 2019 – 2023.
2. Đối tượng
2.1. Đối tượng nghiên cứu định lượng: Toàn bộ báo cáo về cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân lực y tế, các báo cáo công tác của Bệnh viện đa khoa Đông Anh từ năm 2019 đến năm 2023.
2.2. Đối tượng nghiên cứu định tính: Ban Giám đốc bệnh viện, Trưởng khoa phòng, bác sĩ, điều dưỡng, hộ sinh đang công tác tại Bệnh viện đa khoa Đông Anh.
3. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, kết hợp nghiên cứu định tính và định lượng.
4. Kết quả chính
4.1. Thực trạng nguồn nhân lực y tế tại Bệnh viện đa khoa Đông Anh, thành phố Hà Nội giai đoạn 2019 – 2023.
- Số lượng nhân lực: Tổng số nhân lực bệnh viện giai đoạn 2019 – 2023 tương đối ổn định, không có sự biến động nhiều. Số lượng nhân viên y tế đáp ứng được yêu cầu của thông tư 08/2007/TTLT-BYT-BNV, năm 2023 nhân lực đáp ứng được 77,7% theo quy định thông tư số 03/TT-BYT ngày 17/02/2023 của Bộ Y tế về vị trí việc làm, định mức số lượng người làm việc tại các cơ sở y tế. Tỷ lệ lao động nữ cao hơn nhiều so với lao động nam (chiếm từ 76,4% - 83,2%).
- Chất lượng nhân lực: Tỷ lệ bác sĩ có trình độ sau đại học đạt từ 42% -48%, tỷ lệ điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật y đạt chuẩn cao đẳng theo quy định Thông tư 26/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 07/10/2015 của liên Bộ Y tế - Bộ Nội vụ.
- Biến động nhân lực: trong 05 năm, bệnh viện tuyển dụng được 86 lao động hợp đồng, 101 viên chức. Số lượng cán bộ thôi việc, nghỉ hưu, chuyển công tác là 69 người.
- Bệnh viện thực hiện nhiều chính sách đãi ngộ đối với nhân viên y tế: hỗ trợ đào tạo, thăng hạng chức danh nghề nghiệp, khen thưởng động viên kịp thời. Thu nhập bình quân/người tăng dần theo các năm từ 141 triệu (năm 2019) lên 192 triệu (năm 2023).
4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nguồn nhân lực y tế tại bệnh viện đa khoa Đông Anh, thành phố Hà Nội giai đoạn 2019-2023.
- Nhóm yếu tố ảnh hưởng tích cực đến nguồn nhân lực: sự quan tâm của ban lãnh đạo bệnh viện, chính sách đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, đánh giá, ghi nhận và cơ hội thăng tiến, môi trường làm việc thân thiện, điều kiện làm việc.
- Nhóm yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn nhân lực bệnh viện: Cơ chế tự chủ về tài chính, sự cạnh tranh giữa các cơ sở y tế, thu nhập của cán bộ nhân viên.
Việc cải thiện tỷ lệ tiêm vaccine cho trẻ em là rất quan trọng để ngăn ngừa hậu quả lâu dài của các ca nhiễm COVID-19 nhất là với xuất hiện của các biến thể COVID-19 kháng thuốc, và đặc biệt là ở những nơi khan hiếm nguồn lực. Nghiên cứu này xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự chấp nhận và sẵn sàng chi trả đối với tiêm vaccine COVID-19 cho trẻ em ở những người có chuyên môn y tế và cộng đồng.
Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2022 trên một bộ câu hỏi trực tuyến có sử dụng phương pháp lựa chọn rời rạc (DCE). Cuối cùng có 891 người (86% người tham gia nghiên cứu) từ nhiều vùng miền khác nhau của Việt Nam đã được đưa vào phân tích.
Kết quả cho thấy, hầu hết những người tham gia nghiên cứu đều đồng ý tiêm vaccine cho tất cả trẻ em, trong đó những người có chuyên môn về y tế là 76,2% và ở nhóm cộng đồng là 69,3%. Các nhân viên y tế là nguồn thông tin chính về vaccine (70,7%). Các tùy chọn chi trả 50% và chi trả toàn bộ chiếm các tỷ lệ lớn nhất lần lượt là 28,3% và 26,6%.
Tình trạng có con hoặc mang thai làm giảm sự chấp nhận trong khi sự hài lòng về dịch vụ y tế làm tăng sự chấp nhận. Mối quan tâm về đặc điểm của vaccine làm giảm sự chấp nhận ở những người có chuyên môn về tế và cộng đồng. Gánh nặng chi phí y tế trong quá khứ có tương quan tiêu cực với ý định chi trả cho vaccine, trong khi sự hài lòng về dịch vụ y tế có tương quan tích cực mức chi trả.
Sự mâu thuẫn đáng kể giữa mức độ chấp nhận cao và mức độ sẵn sàng chi trả thấp nhấn mạnh vai trò của thông tin về vaccine và niềm tin của người dân đối với sự an toàn của vaccine. Để xây dựng một chương trình tiêm chủng hiệu quả cho trẻ em tại Việt Nam, cần cung cấp thông tin chính xác và đáp ứng các dịch vụ tiêm chủng, chủ yếu thông qua các nhân viên y tế có hiểu biết và chuyên nghiệp, có thể cải thiện ý định tiêm chủng và chi trả cho vaccine COVID-19.
Mục tiêu: Mô tả thực trạng cung ứng dịch vụ phòng chống lao và các yếu tố liên quan của các trạm y tế xã tại tỉnh Nghệ An năm 2023.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 401/460 trạm y tế xã tại tỉnh Nghệ An.
Kết quả: Kết quả của nghiên cứu cho thấy hơn 90% trạm y tế xã tham gia nghiên cứu ở khu vực nông thôn (57,61%) và miền núi (32,42%). Tỷ lệ trạm y tế có bác sỹ chỉ chiếm 74,12% và chỉ có 39,65% trạm y tế có chẩn đoán lao, phương pháp chuẩn đoán lao phổ biến nhất hiện nay tại các trạm y tế xã tại Nghệ An đó là triệu chứng lâm sàng (98,74%). Tỷ lệ thuốc sẵn có tại cả 3 khu vực còn thấp và khác biệt giữa các khu vực là không có ý nghĩa thống kê.
Kết luận: Thực trạng khả năng cung ứng dịch vụ phòng chống lao của tỉnh Nghệ An còn nhiều hạn chế về mặt nhân lực, chẩn đoán, điều trị, cơ sở vật chất, sinh phẩm và thuốc
Mục tiêu 1: Mô tả kết quả điều trị methadone của người bệnh sau 12 tháng tham gia chương trình thí điểm cấp thuốc methadone nhiều ngày tại 3 tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Hải Phòng năm 2021 – 2022
Mục tiêu 2: Mô tả một số thuận lợi và khó khăn đối với cán bộ y tế tham gia triển khai chương trình thí điểm cấp thuốc methadone nhiều ngày tại ba tỉnh nói trên.
Thiết kế nghiên cứu: cắt ngang trích lục bệnh án và thu thập dữ liệu định tính
Đối tượng mục tiêu 1: Người bệnh bắt đầu tham gia chương trình cấp thuốc methadone nhiều ngày từ tháng 4 đến tháng 9/2021 và được trích lục bệnh án đến tháng 9/2022. Đối tượng mục tiêu 2: 1. Lãnh đạo CDC tỉnh hoặc cán bộ quản lý chương trình methdone tỉnh. 2. Cán bộ cơ sở điều trị methadone chính. 3. Cán bộ cơ sở cấp thuốc methadone. 4. Cán bộ hỗ trợ giám sát (cán bộ trạm y tế xã/phường hoặc thôn bản)
Kết quả chính:
1. Kết quả điều trị methadone của người bệnh sau 12 tháng tham gia chương trình thí điểm cấp thuốc methadone nhiều ngày.
- Người bệnh điều trị cấp thuốc methadone nhiều ngày có đặc điểm nhân khẩu xã hội tương đồng với người bệnh điều trị methadone nói chung. Chủ yếu là nam, độ tuổi trung niên, đa số là dân tộc Kinh, học vấn chủ yếu dưới trung học cơ sở, đa số đã kết hôn và đa số không có thu nhập ổn định.
- Sau 12 tháng theo dõi, 94,9% duy trì trong điều trị methadone, 88,9% duy trì trong chương trình cấp thuốc nhiều ngày. Người bệnh ở đồng bằng và duy trì liên tục trong cấp thuốc nhiều ngày có tỷ lệ duy trì điều trị cao hơn.
- Người bệnh tham gia cấp thuốc nhiều ngày tuân thủ điều trị tương đối tốt. Tỷ lệ bỏ liều trong tháng dao động dưới 3% trong 12 tháng theo dõi. Lí do bỏ liều chủ yếu là bận công việc gia đình.
- Sử dụng chất dạng thuốc phiện duy trì ở mức thấp sau khi người bệnh tham gia cấp thuốc nhiều ngày. Mặc dù tỷ lệ người bệnh được xét nghiệm nước tiểu hàng tháng dao động từ 40-70%, tỷ lệ xét nghiệm nước tiểu dương tính dao động dưới 2% trong 12 tháng theo dõi.
2. Một số thuận lợi và khó khăn đối với cán bộ y tế tham gia triển khai chương trình thí điểm cấp thuốc methadone nhiều ngày
Thuận lợi:
Cán bộ y tế báo cáo lợi ích ban đầu của chương trình cấp thuốc nhiều ngày là giảm số lượng người bệnh tập trung quá đông đến cơ sở điều trị hàng ngày. Ngoài ra chương trình cũng nhận được sự phối hợp từ các ban ngành và đồng đẳng viên tại cộng đồng ở một số địa phương, và sự ủng hộ và hợp tác của người bệnh và gia đình.
Khó khăn:
Còn nhiều thách thức trong quá trình triển khai liên quan đến nguồn lực và khối lượng công việc của cán bộ y tế, bao gồm:
- Cán bộ điều trị methadone, đặc biệt ở các cơ sở y tế tuyến xã ở khu vực miền núi, thường kiêm nhiệm nhiều việc. Do đó, việc sắp xếp cán bộ tham gia tập huấn và duy trì hoạt động ổn định gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong các đợt dịch COVID-19 trong thời gian triển khai.
- Phần mềm quản lý chương trình methadone chưa tích hợp thông tin cấp thuốc nhiều ngày, do đó nhiều quy trình quản lý phải làm thủ công, mất nhiều thời gian và công sức của cán bộ.
- Thách thức trong triển khai giám sát tại nhà, đặc biệt ở các tỉnh miền núi do khoảng cách tới nhà người bệnh xa, địa hình đi lại khó khăn, và chưa được hỗ trợ kinh phí phù hợp. Giám sát qua điện thoại khó khăn với một số người bệnh ở miền núi.
- Thiếu nguồn xét nghiệm nước tiểu ổn định để đánh giá kết quả điều trị và hỗ trợ người bệnh tốt hơn trong quá trình điều trị.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ về tiêm vắc xin viêm gan B sơ sinh của cán bộ trạm y tế thuộc huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên, 2022.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về tiêm vắc xin viêm gan B sơ sinh của đối tượng nghiên cứu trên
Đối tượng nghiên cứu: Các cán bộ y tế trực tiếp tham gia hoạt động tiêm chủng tại trạm y tế của tất cả 12 xã miền núi huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên.
Phương pháp nghiên cứu:
1. Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
2. Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu
- Cỡ mẫu: Toàn bộ các cán bộ y tế trực tiếp tham gia hoạt động tiêm chủng tại trạm y tế 12 xã thuộc huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên.
- Phương pháp chọn mẫu: Chọn toàn bộ các cán bộ y tế trực tiếp tham gia hoạt động tiêm chủng tại 12 trạm y tế xã, huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên.
3. Biến số nghiên cứu
Nhóm biến số về thông tin chung của đối tượng nghiên cứu:
Thông tin về cán bộ y tế: Giới tính, tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, thâm niên công tác trong lĩnh vực tiêm chủng.
Biến số mục tiêu 1:
- Nhóm biến số về kiến thức của cán bộ y tế về bệnh viêm gan B:
Nguyên nhân gây bệnh VGB, đường lây truyền, khả năng điều trị, hậu quả của bệnh VGB, ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, cách dự phòng.
- Nhóm biến số về kiến thức của cán bộ y tế về tiêm vắc xin VGBSS:
Lợi ích của tiêm vắc xin VGBSS, thời gian tiêm, các trường hợp hoãn tiêm, phản ứng sau tiêm có thể gặp phải.
Biến số mục tiêu 2:
Nhóm biến số về thái độ của cán bộ y tế đối với tiêm vắc xin VGBSS: Thái độ khi thực hiện tiêm vắc xin VGBSS, thái độ với tiêm chủng tại trạm, tại nhà, đánh giá về mức độ cần thiết của tiêm chủng, mức độ an toàn của tiêm chủng, mức độ hiệu quả của tiêm chủng và sự đồng thuận đối với chương trình tiêm vắc xin VGBSS.
Chi tiết biến số được trình bày tại phụ lục 1.
Chi tiết bộ công cụ được trình bày tại phụ lục 2.
Chi tiết thang điểm đánh giá kiến thức của cán bộ y tế về bệnh VGB và
vắc xin VGBSS được trình bày tại phụ lục 3.
4. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu
- Công cụ thu thập số liệu: Sử dụng bộ câu hỏi đã thiết kế sẵn (phụ lục 2). Bộ câu hỏi được thử nghiệm trên 10 cán bộ y tế xã trực tiếp tham gia hoạt động tiêm chủng tại huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên trước khi điều tra chính thức.
- Có 3 điều tra viên được tập huấn nghiên cứu này bao gồm: Mục tiêu, phương pháp thu thập số liệu, nội dung bộ câu hỏi phỏng vấn, kế hoạch thu thập số liệu, danh sách đối tượng được chọn cho nghiên cứu và cách ghi chép số liệu thu thập.
- Giám sát viên là cán bộ khoa Dịch tễ- Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương đã có kinh nghiệm tham gia các nghiên cứu định lượng và được tập huấn về nghiên cứu này, bao gồm: Mục tiêu, phương pháp nghiên cứu, bộ câu hỏi phỏng vấn, kế hoạch thu thập số liệu, danh sách đối tượng được chọn cho nghiên cứu, danh sách điều tra viên, cách giám sát và thu thập số liệu tại thực địa. Giám sát viên rà soát chất lượng phiếu và kiểm tra ngẫu nhiên 10% đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập số liệu: Phỏng vấn trực tiếp tại trạm y tế về kiến thức của cán bộ y tế về bệnh VGB và về tiêm vắc xin VGBSS, phỏng vấn gián tiếp thông qua phát phiếu phỏng vấn tự điền về thái độ của cán bộ y tế về tiêm vắc xin VGBSS.
5. Sai số và biện pháp hạn chế sai số
5.1. Sai số
Nghiên cứu có thể gặp phải sai số hệ thống. Cụ thể là sai số nhớ lại, sai số trong quá trình nhập, quản lý và phân tích số liệu. Sai số nhớ lại về kiến thức của cán bộ y tế trong quá trình phỏng vấn.
5.2. Biện pháp hạn chế sai số
Để khống chế sai số trong nghiên cứu, đặc biệt là sai số nhớ lại, sai số nhập liệu, quản lý và phân tích số liệu, cũng như sai sót trong quá trình phỏng vấn cán bộ y tế, bạn có thể thực hiện những biện pháp sau:
- Tập huấn điều tra viên (ĐTV) về các quy trình và phương pháp làm việc chính xác để giảm thiểu sai số nhớ lại.
- Xây dựng bộ câu hỏi nghiên cứu chi tiết và rõ ràng, đồng thời cung cấp hướng dẫn chi tiết cho ĐTV để giảm thiểu sai sót trong quá trình nhập liệu.
- Sử dụng phần mềm và quản lý dữ liệu để tự động
Nghiên cứu cắt ngang nhằm 2 mục tiêu: 1. Mô tả thực trạng tiếp xúc nghề nghiệp của nhân viên y tế tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương năm 2023; 2. Phân tích tình trạng sức khỏe, bệnh tật của nhân viên y tế và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương năm 2023. Tổng có 293 nhân viên y tế bộ tại bệnh viện Nhiệt đới Trung ương tham gia nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỉ lệ nhân viên y tế ở khoa lâm sàng thường xuyên tiếp xúc với máu và chất tiết của người bệnh cũng như có nguy cơ tổn thương do vật sắc nhọn cao hơn so với ở khoa cận lâm sàng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Ngoài ra, 15,0% nhân viên đã được chẩn đoán theo dõi bệnh nghề nghiệp. Điều này cho thấy cần phải cải thiện điều kiện lao động và luôn trang bị đầy đủ các phương tiện bảo vệ cá nhân cũng như đào tạo, kiểm tra, đánh giá cách sử dụng chúng, đặc biệt là tại các khu vực nguy cơ lây nhiễm bệnh cao.
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm phân tích thực hành phòng chống COVID-19 trong và ngoài cơ sở y tế của cán bộ y tế tại Bắc Ninh và Nghệ An năm 2022.
Đối tượng nghiên cứu: cán bộ y tế có tham gia các công việc tiếp xúc với người mắc hoặc nghi mắc COVID-19 công tác tại các khoa/phòng/đơn vị điều trị bệnh nhân COVID-19 tại một số cơ sở y tế tỉnh Bắc Ninh và Nghệ An.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang sử dụng phương pháp định lượng bằng bộ câu hỏi tự điền trên 335 cán bộ y tế tại một số cơ sở y tế công lập ở Bắc Ninh và Nghệ An năm 2022, mô tả thực hành phòng chống COVID-19 ở trong và ngoài cơ sở y tế thông qua tỉ lệ sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân, vệ sinh tay và tiêm phòng COVID-19.
Kết quả: Tỉ lệ cán bộ y tế sử dụng găng tay dùng một lần, khẩu trang y tế, tấm chắn mặt, áo choàng, khẩu trang N95 và vệ sinh tay trước và sau khi tiếp xúc lần lượt là 56,6%, 80,4%, 36,7%, 29,8%, 42,2% và 81,2%. Cán bộ y tế tại Bắc Ninh có tỉ lệ sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân cao hơn và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở tỉ lệ sử dụng tấm chắn mặt: 53,9% tại Bắc Ninh so với 23,2% tại Nghệ An; áo choàng: 42,3% tại Bắc Ninh so với 18,1% tại Nghệ An; và khẩu trang N95: 56,2% tại Bắc Ninh so với 31,2% tại Nghệ An. Tỉ lệ cán bộ y tế tiêm 3 mũi vắc xin trở lên là 95,5%.
Nghiên cứu được tiến hành nhằm mô tả một số bộ công cụ đánh giá hội chứng COVID-19 kéo dài và mô tả thực trạng mắc hội chứng COVID-19 kéo dài đánh giá bằng công cụ SBQTM-LC trên cán bộ y tế tại Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh và Bệnh viện Hữu Nghị Đa khoa Nghệ An năm 2021-2022. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 04 công cụ đánh giá thực trạng hội chứng COVID-19 kéo dài (bao gồm PCFS, C19-YRS/C19-YRSm, ST & IT và SBQTM-LC) được đề cập trong 40 bài báo. Trong đó, SBQTM-LC là thang đo được phát triển dựa trên phương pháp đo lường tâm lý hiện đại Rasch, cung cấp đánh giá toàn diện về mặt triệu chứng, giúp đo lường một các cụ thể và chính xác sự xuất hiện cũng như mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, rối loạn giấc ngủ, suy giảm trí nhớ và sự tập trung, mệt mỏi là các tình trạng thường gặp nhất trong nhóm CBYT tham gia nghiên cứu. Tuy nhiên, các triệu chứng chủ yếu xuất hiện ở mức độ nhẹ.
Có một tỷ lệ đáng kể (1,3 - 34,7%) CBYT trải qua các tình trạng rối loạn tâm lý khác nhau. Các triệu chứng/tình trạng gây ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động thường ngày và chất lượng cuộc sổng của CBYT với 5,1 - 21,5% CBYT gặp phải tình trạng giới hạn các hoạt động thường ngày ở mức rất ít, một chút hoặc nghiêm trọng
Đặt vấn đề: Nhân viên y tế (NYT) có nguy cơ lây nhiễm cao trong phòng chống dịch COVID-19. Sự hỗ trợ NVYT về đào tạo, phương tiện phòng hộ cá nhân (PTPHCN) và khi mắc COVID-19 là cần thiết trong giai đoạn này. Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang là ba tỉnh thành xuất hiện dịch COVID-19 sớm, diễn biến phức tạp.
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định tỷ lệ mắc bệnh và sự hỗ trợ NVYT ở ba địa phương khi chống dịch COVID-19 năm 2022.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, dữ liệu được thu thập vào 2022 tại 33 cơ sở y tế (CYST) hệ điều trị và dự phòng tuyến tỉnh, huyện, xã. Chọn chủ đích các CSYT, chọn ngẫu nhiên y sĩ, bác sĩ, điều dưỡng chống dịch ở các CSYT được chọn, phỏng vấn trực tiếp bằng bảng hỏi về tình trạng mắc COVID-19 và những sự hỗ trợ được nhận trong thời gian chống dịch. Phương pháp thống kê mô tả, kiểm định Chi bình phương được sử dụng.
Kết quả: Tổng số NVYT tham gia khảo sát tại ba tỉnh là 418 (Hà Nội: 218; Bắc Ninh: 100; Bắc Giang: 100) với tỉ lệ mắc COVID-19 chung là 69,9% (p<0,01). Tỉ lệ mắc ở Hà Nội là 78%, Bắc Ninh là 64%, Bắc Giang là 58%. Trong những NVYT mắc COVID-19 (n=292), 56,2% thuộc độ tuổi 30-39, 68,2% là nữ, 97,6% tiếp xúc người mắc Covid-10 dưới 2m, 86,6% tiếp xúc người mắc Covid/nghi ngờ mắc tại gia đình, 78,1% mắc khi chống dịch tại cơ quan, 53,1% trực tiếp chăm sóc bệnh nhân F0, 86,6% được cung cấp đồ bảo hộ. Trong tổng số NVYT được khảo sát, 86,4% được cấp găng tay y tế, 84,9% được cấp tấm che mặt, 84,9% được cấp áo bảo hộ, 80,1% được cấp khẩu trang y tế, 73,2% được cấp các PTPHCN trên; 56,2% được tập huấn về tiêm chủng COVID-19 an toàn, 55,0% được tập huấn về chăm sóc người bệnh COVID-19 mức độ vừa và nhẹ, 49,5% được tập huấn sử dụng PTPHCN, 49% được tập huấn chẩn đoán điều trị. Trong tổng số mắc COVID-19, 28,8% được hỗ trợ vật chất, 23,3% được điều trị tại nơi làm việc và 6,2% được điều trị tại bệnh viện COVID-19.
Kết luận: Tỉ lệ mắc COVID-19 ở NVYT năm 2022 ở Hà Nội là 78%, Bắc Ninh là 64%, Bắc Giang là 58%, tỷ lệ mắc chung 69,9%. NVYT được hỗ trợ chủ yếu về các PTPHCN. Cần có phương án sẵn sàng nguồn lực để ứng phó có hiệu quả khi có đại dịch.
1. Mục tiêu của nghiên cứu:
- Mô tả Thực trạng về nhân lực y tế tuyến xã tham gia phòng chống COVID-19 tại một số tỉnh trọng điểm trong năm 2021.
- Mô tả một số yếu tố liên quan đến mức độ lo lắng và hài lòng khi tham gia chống dịch COVID-19 của nhóm đối tượng trên.
2. Đối tượng nghiên cứu: Cán bộ Trạm Y tế xã/phường/thị trấn.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang.
3.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Đối tượng: Cán bộ Trạm Y tế xã/phường/thị trấn của 07 tỉnh/thành phố trọng điểm: Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nghệ An, Đắc Lắc, Bình Dương, Kiên Giang.
- Phương pháp thu thập thông tin: Phỏng vấn bộ câu hỏi
- Cỡ mẫu và chọn mẫu: nghiên cứu này được sử dụng dữ liệu thứ cấp từ đề tài khoa học cấp Bộ Y tế “Đánh giá và dự báo nguồn nhân lực y tế ứng phó có hiệu quả với COVID-19 ở Việt Nam” của Trường Đại học Y Hà Nội với chủ nhiệm đề tài là PGS.TS Lê Minh Giang được thực hiện ở 07 tỉnh/thành phố và 03 trường đại học trong cả nước.
- Áp dụng phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn với các bước như sau:
+ Bước 1: Chọn tỉnh. Chọn chủ đích 07 tỉnh trọng điểm về tình hình chống dịch năm 2021 trong cả nước: Bình Dương, Kiên Giang, Đắk Lắk, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Nghệ An.
+ Bước 2: Chọn huyện. Tại mỗi tỉnh chọn ngẫu nhiên 2 quận/huyện. Tại mỗi quận/huyện, chọn chủ đích Trung tâm y tế quận/huyện và Bệnh viên đa khoa huyện để tiến hành nghiên cứu.
- Tại mỗi TYT tuyến xã chọn ngẫu nhiên 05 nhân viên y tế tham gia vào nghiên cứu. Tổng 210 trường hợp tham gia vào nghiên cứu.
4. Kết quả
4.1. Thực trạng công tác phòng chống dịch COVID-19 ở tuyến xã tại một số tỉnh trọng điểm trong năm 2021
Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu tại tuyến xã được tập huấn về kiến thức, chẩn đoán, phân loại, xử trí, điều trị bệnh COVID-19 và phòng hộ cá nhân trước khi tham gia chống dịch năm 2021 chiếm tỷ lệ cao nhưng tỷ lệ đối tượng nghiên cứu được tập huấn lại chiếm tỷ lệ khá thấp vào năm 2022. Nhiệm vụ chính của nhân viên y tế tuyến xã chủ yếu liên quan đến lĩnh vực dự phòng. Trong quá trình tham gia chống dịch mức độ lo lắng nhiễm COVID-19 của nhân viên y tế trong năm 2021 chiếm tỷ lệ cao, sự lo lắng đã giảm dần vào năm 2022. Đa số nhân viên y tế đã được chẩn đoán mắc COVID-19 (99,4%), 96,3% nhân viên y tế mắc COVID-19 có triệu chứng, 35,8% có triệu chứng COVID-19 kéo dài, đa số nhân viên y tế đã được tiêm phòng vắc xin COVID-19 (56,7% đã được tiêm 02 mũi vắc xin).
4.2. Một số yếu tố liên quan đến mức độ lo lắng và hài lòng khi tham gia chống dịch COVID-19 của nhóm đối tượng trên.
Có sự liên quan giữa mức độ lo lắng với sự lo lắng về một số nội dung trong khi tham gia chống dịch giữa các nhóm tuổi. Có sự khác biệt giữa tỷ lệ lo lắng ở ĐTNC theo giới nữ cao hơn nam giới. Tỷ lệ lo lắng của ĐTNC nữ về khả năng bị nhiễm COVID-19, phơi nhiễm với các trường hợp bị COVID-19 mà không biết, dịch bệnh COVID-19 không được kiểm soát cao hơn khoảng 4 lần so với nam giới.
Có sự liên quan giữa mức độ hài lòng khi tham gia chống dịch giữa các nhóm tuổi. Mức độ hải lòng về hỗ trợ tài chính sau khi tham gia chống dịch và mức độ quan tâm/hỗ trợ của cơ quan địa phương nơi đến chống dịch ở ĐTNC nữ cao hơn ở nam.
Mục tiêu
1. Mô tả thực trạng phân loại, thu gom, lưu giữ, giảm thiểu và bàn giao chất thải nhựa tại bệnh viện đa khoa Sơn Tây năm 2022
2. Tìm hiểu một số cơ hội và thách thức cho việc quản lý chất thải nhựa tại Bệnh viện Đa khoa Sơn Tây năm 2022
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang. Nghiên cứu áp dụng phương pháp, hồi cứu hồ sơ, sổ sách, báo cáo về công tác quản lý chất thải nhựa của bệnh viện.
Kết quả: Khối lượng CTN phát sinh tại Bệnh viện Đa khoa Sơn Tây năm 2022 so với tổng lượng chất thải y tế phát sinh tại bệnh viện là 11.168kg (4,54%) bao gồm CTN lây nhiễm 10.320kg (22,8%), CTN nguy hại không lây nhiễm 25kg (14,12%), CTN có khả năng tái chế là tái chế là 823kg bao gồm CTN tái chế từ hoạt động chuyên môn 735kg (28%) và CTN tái chế từ hoạt động sinh hoạt 88kg (0,05%). Khối lượng chất thải tái chế tại BVĐK Sơn Tây năm 2022 là 2714kg bao gồm CTN (823kg) và các chất thải không phải là sản phẩm từ nhựa (1891kg). Trong 823kg CTN tái chế gồm chai dịch truyền 600kg/năm (22,1%), can nhựa 135kg/năm (4,98%) và nhựa sinh hoạt 88kg/năm (3,24%).
Kết luận: Tỉ trọng CTN so với tổng chất thải y tế là đáng kể. Trong các loại CTN phát sinh, CTN lây nhiễm cao nhất, tiếp đến là chất thải nhựa tái chế, CTN nguy hại không lây nhiễm, CTN thông thường. Vì vậy, để hạn chế và giảm thiểu lượng chất thải nhựa phát sinh, BVĐK Sơn Tây cần thực hiện phân loại thu gom, lưu giữ, xử lý đúng quy định về quản lý chất thải y tế. Bên cạnh đó, Bệnh viện nên thực hiện mua sắm các sản phẩm thân thiện với môi trường, cải tiến ứng dụng kỹ thuật vào công tác khám chữa bệnh… để giảm thiểu CTN phát sinh
I. Mục tiêu đề tài:
1. Mô tả tác động của đại dịch COVID-19 lên sức khoẻ tâm thần và áp lực công việc của nhân viên y tế tại Trung tâm Y tế huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2022.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến tác động của đại dịch COVID-19 lên sức khoẻ tâm thần và áp lực công việc của nhân viên y tế tại Trung tâm Y tế huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2022.
II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
1. Đối tượng: Nhân viên y tế đang làm việc tại Trung tâm Y tế huyện Bình Giang và 16 Trạm Y tế xã/thị trấn trên địa bàn huyện Bình Giang.
2. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu mô tả cắt ngang
- Chọn mẫu toàn bộ
III. Kết quả
1. Tác động của đại dịch Covid - 19 lên sức khoẻ tâm thần của nhân viên y tế tại Trung tâm Y tế huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2022: Kết quả nghiên cứu cho thấy 29,4% đối tượng có vấn đề sức khoẻ tâm thần được quan tâm, 2,7% được chẩn đoán có tình trạng căng thẳng, 1,4% có sức khoẻ tâm thần ảnh hưởng lâu dài trong nhiều năm. Điểm trung bình của “Sự ám ảnh” về COVID-19 là cao nhất (9,02±3,49), tiếp theo là “Sự lảng tránh” (6,43±3,51) và “Phản ứng thái quá” (5,23±3,07). Các nhân viên y tế là nam giới, điều dưỡng, làm việc tại Trung tâm Y tế cơ sở 1 (Khối điều trị), có bệnh nền, sống cùng với gia đình, trang bị bảo hộ mức độ trung bình hoặc thiếu hụt thì có nguy cơ bị các vấn đề sức khoẻ tâm thần cao hơn các đối tượng khác.
2. Tác động của đại dịch Covid - 19 áp lực công việc của nhân viên y tế tại Trung tâm Y tế huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2022: 67,2% đối tượng có áp lực công việc ở mức độ trung bình, 3,4% NVYT có áp lực công việc ở mức độ cao. Điểm trung bình của “Kiệt sức tinh thần” là cao nhất (2,05±1,35), tiếp theo là “Thái độ tiêu cực” (1,46±1,15) và “Thành tích cá nhân” (3,83±1,30). Các nhân viên y tế là nữ giới, trực COVID-19, tuổi nghề >20 năm, cung cấp trang bị bảo hộ mức độ thiếu hụt thì có nguy cơ bị áp lực công việc cao hơn các đối tượng khác.
Một nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 329 nhân viên y tế trên địa bàn thị xã Nghĩa Lộ năm 2022 nhằm xác định tỷ lệ và phân tích một số yếu tố liên quan đến ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến sức khỏe tâm thần và hậu COVID-19 ở nhân viên y tế. Kết quả cho thấy 33,4% nhân viên y tế có các vấn đề sức khỏe tâm thần trong đó: 2,8% có vấn đề sức khỏe tâm thần cần quan tâm; 3,3% chẩn đoán có căng thẳng; 17,3% bị ảnh hưởng trầm trọng bởi tình trạng căng thẳng. Có 85,7% nhân viên y tế mắc COVID-19, trong đó tỷ lệ tái nhiễm là 17,7%. Có 69,6% nhân viên y tế có các triệu chứng hậu COVID-19. Các triệu chứng hậu COVID-19 phổ biến là gặp vấn đề về nhận thức (trí nhớ, khả năng tập trung:42,3%); mệt mỏi (41,2%); gặp khó khăn trong giấc ngủ (38,8%); đau cơ, đau khớp (36,9%); ho (35%); đau đầu (33,0%); rụng tóc (26,9%). Các yếu tố dân tộc, mức độ bệnh khi mắc COVID-19, trình độ chuyên môn, nhóm tuổi nghề có mối liên quan đến các vấn đề sức khỏe tâm thần ở nhân viên y tế. Các yếu tố giới tính nữ, mức độ bệnh khi mắc COVID-19, sử dụng thuốc kháng vi rút, vị trí công tác có mối liên quan đến hậu COVID-19 ở nhân viên y tế.
Mục tiêu: Mô tả thực trạng công tác phát sinh, phân loại, thu gom, lưu giữ chất thải rắn y tế tại Bệnh viện đa khoa Hà Đông năm 2022; phân tích thách thức và cơ hội trong công tác quản lý chất thải rắn y tế của Bệnh viện đa khoa Hà Đông năm 2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp nghiên cứu định lượng thông qua số liệu sẵn có từ sổ sách, tài liệu, hồ sơ quy định và cơ sở vật chất, trang thiết bị, quy trình quản lý chất thải rắn y tế năm 2022 và nghiên cứu định tính lãnh đạo và nhân viên y tế đang làm việc tại các khoa lâm sàng, kiểm soát nhiễm khuẩn của bệnh viện; từ tháng 04/2022 đến tháng 11/2023. Kết quả và kết luận: Cơ sở vật chất, các trang thiết bị, dụng cụ phục vụ công tác phân loại được cung cấp tương đối đầy đủ cho các khoa, phòng theo quy định. Các dụng cụ như túi, hộp/thùng đựng chất thải sắc nhọn, thu gom chất thải đã được trang bị đáp ứng theo quy định của Bộ Y tế. Tuy nhiên, do lượng chất thải phóng xạ quá ít nên bệnh viện chưa trang bị hết túi, hộp/thùng phân loại rác màu đen cho tất cả các khoa, phòng.
Mục tiêu của nghiên cứu:
1. Mô tả thực trạng về nhân lực y tế tuyến huyện tham gia điều trị và chăm sóc bệnh nhân COVID-19 tại một số tỉnh năm 2021
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến mức độ lo lắng và hài lòng của nhóm đối tượng nghiên cứu trên
Đối tượng: Nhân viên y tế tham gia điều trị và chăm sóc bệnh nhân Covid 19 tại các Trung tâm y tế/bệnh viện quận/huyện ở 7 tỉnh/thành phố Bắc Ninh, Hà Nội, Bắc Giang, Nghệ An, Đắc Lắc, Bình Dương, Kiên Giang năm 2021
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang
Kết quả chính:
1. Thực trạng nhân lực y tế tham gia phòng chống dịch COVID-19 năm 2021
94,7% ĐTNC đều chống dịch tại cơ quan công tác. Tỷ lệ nhân viên y tế tuyến huyện được tập huấn các kiến thức về bệnh COVID-19 và phòng hộ cá nhân trước khi tham gia chống dịch chiếm tỷ lệ cao.
Nhiệm vụ chủ yếu của ĐTNC khi tham gia chống dich là trực tiếp chăm sóc BN F0. Vì vậy mức độ lo lắng có thể bị phơi nhiễm hoặc nhiễm bệnh là hơn 70%.
Khả năng cung cấp hỗ trợ của địa phương với các trang bị phòng hộ các nhân đếu đạt trên 90%. Hầu như các nhân viên y tế đều không phải sử dụng lại các đồ dùng trong quá trình chống dịch.
73,0% ĐTNC đã mắc COVID-19, bối cảnh mắc là khi tham gia chống dịch với các triệu chứng thường gặp là ho, mệt mỏi, đau họng. 95,9% ĐTNC đã được tiêm đủ ít nhất 2 mũi vắc xin COVID-19.
2. Một số yếu tố liên quan mức độ lo lắng và hài lòng của nhân viên y tế tuyến huyện tham gia điều trị và chăm sóc bệnh nhân COVID-19 tại một số tỉnh năm 2021
- Mức độ nản chí vì kết quả công việc có liên quan đến giới tính, thời gian tiếp xúc
- Cảm thấy cô đơn khi xa cách người thân có liên quan đến giới tính, chức danh nghề nghiệp
- Mức độ lo lắng có thể bị nhiễm/phơi nhiễm có liên quan đến chức danh nghề nghiệp, thời gian tiếp xúc
- Mức độ lo lắng dịch bệnh không được kiểm soát có liên quan đến chức danh nghề nghiệp, thâm niên công tác vị trí hiện tại, thời gian tham gia chống dịch
- Yếu tố thời gian tiếp xúc (p = 0,006) có mối liên quan dương với với điểm số lo lắng chung; khi thời gian tiếp xúc tăng lên 1 đơn vị thì điểm lo lắng chung sẽ tăng lên 0,344 đơn vị với 95% KTC (0,098 – 0,590).
- Các nội dung đánh giá sự hài lòng có điểm số giao động từ 2 – 3 điểm
- Chức vụ trong công việc có mối liên quan âm với mức độ hài lòng chung; khi chức vụ trong công việc tăng lên 1 đơn vị thì mức độ hài lòng chung sẽ giảm xuống 2,654 đơn vị với 95% KTC (-4,107 - -1,201).
Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định tỷ lệ nhân viên Y tế mắc COVID-19 khi tham gia phòng chống dịch tại 07 tỉnh/thành năm 2021 – 2022 và các yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 62,6% (383/612) nhân viên Y tế từng được chẩn đoán mắc COVID-19 trong thời gian trực tiếp tham gia phòng chống dịch năm 2021 – 2022. Phần lớn nhân viên Y tế mắc COVID-19 trong bối cảnh tham gia chống dịch tại cơ quan đang công tác (75,8% ở năm 2021 và và 85,5% ở năm 2022). Tỷ lệ tiêm vắc xin phòng COVID-19 nói chung ở NVYT đạt mức cao và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm NVYT đã tiêm ≤ 2, 3 hay 4 mũi vắc-xin phòng COVID-19 (p<0,05). Kết quả phân tích đa biến cho thấy NVYT tham gia trực tiếp điều trị bệnh nhân COVID-19 tại bệnh viện, tái sử dụng PPE, trực tiếp điều trị BN COVID-19 ở cộng đồng, lấy mẫu COVID-19 ở cộng đồng, triển khai tiêm vắc xin COVID-19, hỗ trợ tiêm vắc xin COVID-19 có liên quan đến tỷ lệ mắc COVID-19 ở NVYT. Việc xác định tỷ lệ nhiễm COVID-19 trong nhân viên Y tế cũng như xác định một số yếu tố liên quan là một phần quan trọng để có biện pháp can thiệp nhằm giảm nhẹ hậu quả đối với sức khỏe của nhân viên Y tế trong đại dịch COVID-19.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phỏng vấn 151 nhân viên y tế nhằm mô tả sự hài lòng với công việc của nhân viên y tế tại Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Bình năm 2022 và một số yếu tố liên quan .
Kết quả: Nhân viên y tế tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Bình hài lòng với công việc năm 2022 đạt 77,3%; điểm trung bình 4,1. Nhân viên y tế hài lòng với 4/5 nhóm yếu tố bao gồm: “Môi trường làm việc” (74%; 4,0 điểm), “Lãnh đạo trực tiếp, đồng nghiệp” (88,2%; 4,3 điểm), “Công việc, cơ hội học tập, thăng tiến” (78,8%; 4,1 điểm), “Hài lòng chung về Trung tâm” (84,6%; 4,3 điểm). Nhân viên y tế không hài lòng về yếu tố “Quy chế nội bộ, tiền lương, phúc lợi” (66,6%; 3,9 điểm). Nghiên cứu tìm thấy có mối liên quan giữa thâm niên công tác và thu nhập bình quân hàng tháng và sự hài lòng với công việc của nhân viên y tế. Không tìm thấy có mối liên quan giữa các yếu tố giới tính, tuổi, chuyên môn chính, trình độ học vấn và sự hài lòng với công việc của nhân viên y tế tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Bình.
Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành và phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về dự phòng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe của nhân viên y tế tuyến cơ sở huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An năm 2022
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
Kết quả: Có 55,6% nhân viên y tế có kiến thức đạt về dự phòng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe. Trong đó, có 24,5% nhân viên y tế có kiến thức đúng về biểu hiện của biến đổi khí hậu, 22,1% nhân viên y tế có kiến thức đúng về nguyên nhân của biến đổi khí hậu. Có 51,4% nhân viên y tế có thái độ đạt trong việc dự phòng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe. Tỷ lệ nhân viên y tế thực hành về dự phòng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe thấp 34,4%. Nhóm nhân viên y tế không đạt về kiến thức có nguy cơ không đạt về thái độ cao hơn gấp 2,05 lần so với nhóm nhân viên y tế có kiến thức đạt (OR = 2,05, p = 0,001). Nhóm nhân viên y tế không đạt về thái độ có nguy cơ không đạt về thực hành cao hơn gấp 4,77 lần so với nhóm nhân viên y tế có thái độ đạt (OR = 4,77, p <0,001).
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu mô tả thực trạng động lực làm việc và phân tích một số yếu tố liên quan đến động lực làm việc của bác sĩ tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2023.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thực hiện phỏng vấn qua bộ câu hỏi trên 115 bác sĩ tại các khoa, phòng thuộc khu vực lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh viện.
Kết quả: Tỷ lệ bác sĩ có động lực làm việc là 70,43%. Trong 7 yếu tố ảnh hưởng đến động lực làm việc, tỷ lệ bác sĩ có động lực với yếu tố “Sức khỏe” là thấp nhất với 33,04%. Tìm thấy mối liên quan giữa động lực làm việc của bác sĩ với một số yếu tố: Tuổi; Thu nhập hằng tháng; Tình trạng hôn nhân; Là thu nhập chính trong gia đình.
Từ khóa: Động lực làm việc; Yếu tố liên quan; Bác sĩ; Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
Mục tiêu: Đánh giá có hệ thống này điều tra các biện pháp can thiệp bằng âm nhạc được sử dụng trên thế giới để cải thiện tình trạng sức khoẻ tinh thần của Nhân viên y tế.
Nguồn dữ liệu: Pubmed
Tiêu chí bao gồm và loại trừ nghiên cứu: Các bài báo toàn văn bằng tiếng Anh đã được công bố tính đến 03/2024 nếu nghiên cứu đánh giá việc sử dụng can thiệp âm nhạc để cải thiện sức khoẻ tinh thần trên đối tượng Nhân viên y tế .
Trích xuất dữ liệu: Dữ liệu được trích xuất bằng bảng tính Excel, trích xuất độc lập các đặc điểm nghiên cứu, tần suất và loại tương tác âm nhạc, các biện pháp về tình trạng kiệt sức và kết quả của tình trạng kiệt sức (căng thẳng nghề nghiệp, ứng phó với căng thẳng và các triệu chứng liên quan như lo lắng).
Tổng hợp dữ liệu: Dữ liệu nghiên cứu và kết quả đã được tóm tắt, đánh giá chất lượng các nghiên cứu đưa vào tổng quan hệ thống bằng Thang điểm GRADE (Grading of Recommendations, Assessment, Development and Evaluation).
Kết quả: Sau khi tìm kiếm được 178 nghiên cứu, đọc toàn văn đưa 14 nghiên cứu vào tổng quan hệ thống trong đó có 2 nghiên cứu cắt ngang, 5 nghiên cứu thuần tập và 7 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng. Các nghiên cứu cắt ngang báo cáo về việc nhân viên y tế tự lựa chọn biện pháp đối phó với căng thẳng cá nhân là nghe nhạc, trong đó các hoạt động tập thể có tác dụng gắn kết và xây dựng môi trường làm việc lành mạnh nhưng không có tác dụng cải thiện triệu chứng cá nhân. Các nghiên cứu thuần tập và thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng báo cáo về phương pháp can thiệp âm nhạc được sử dụng là Gõ ứng tấu, Sáng tác, Nghe nhạc tác động lên 2 nhóm triệu chứng chính: trầm cảm, lo âu và căng thẳng.
Kết luận: Can thiệp bằng nghe nhạc chủ động và nghe nhạc kết hợp với 1 biện pháp khác (massage, thư giãn, thiền, Yoga,..) với nhịp độ 60-80 nhịp/phút có tác dụng giảm triệu chứng lo âu, trầm cảm và căng thẳng ở Nhân viên y tế.
Đặt vấn đề: Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu mô tả thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin năm 2022-2023 và một số yếu tố ảnh hưởng việc chuyển đổi số bệnh viện Nhi trung ương. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế mô tả cắt ngang kết hợp định lượng và định tính áp dụng trên các đối tượng bao gồm số liệu thu thập theo bảng tiêu chí của Thông tư số 54/2017/TT-BYT (TT54/2017/TT-BYT), báo cáo thống kê thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT), nhân viên y tế và một số nhà quản lý đang làm việc tại bệnh viện Nhi trung ương. Kết quả: Bệnh viện đã trang bị hệ thống cơ sở hạ tầng, trang thiết bị đáp ứng được hoạt động khám bệnh, chữa bệnh và quản lý điều hành: có 15 máy chủ, 1256 máy tính, có 13 phân hệ phần mềm. Trong đó, phần mềm quản lý hệ thống thông tin bệnh viện (Hospital Information System - HIS) mới đạt mức 4, phần mềm hệ thống lưu trữ và truyền tải hình ảnh (Picture Archiving and Comunication System – PACS) và phần mềm hệ thống thông tin xét nghiệm (Laboratory Information System – LIS) đã đạt và duy trì mức ‘Nâng cao’. Các nhóm tiêu chí có tỷ lệ đạt từ 87,5% đến 100% các tiêu chí nội dung. Thuận lợi lớn nhất là có sự quan tâm của Lãnh đạo bệnh viện và nhân viên y tế nhận thức được tầm quan trọng của ứng dụng CNTT. Khó khăn là định mức tài chính cho CNTT còn thấp và chưa có cơ chế để áp dụng theo giá dịch vụ y tế, thiếu nhân lực chuyên trách, hạ tầng CNTT chưa đồng bộ và hệ thống phần mềm chưa hoàn thiện. Kết luận: Hệ thống máy tính, máy in cơ bản đáp ứng đủ so với yêu cầu. Tuy nhiên, các trang thiết bị CNTT còn chưa đồng bộ, phần mềm còn chưa hoàn thiện, còn nhiều chỉ tiêu quan trọng bệnh viện chưa đạt được. Lợi ích mà CNTT mang lại được người sử dụng đánh giá cao.
Nghiên cứu cắt ngang nhằm mô tả thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế (NVYT) về phân loại, thu gom, vận chuyển, lưu trữ chất thải rắn y tế (CTRYT) tại bệnh viện Y Dược cổ truyền Sơn La. 136 NVYT tham gia với bộ câu hỏi tự điền được thiết kế sẵn. Kết quả: 72,8% NVYT có kiến thức đạt về phân loại, thu gom, lưu giữ và vận chuyển CTRYT. NVYT có kiến thức đúng cao nhất về phân loại CTRYT (83,8%) và thu gom CTRYT (88,2%), một số nội dung NVYT có kiến thức đúng chưa cao như lưu giữ CTRYT (63,2%) và kiến thức chung về CTRYT (69,1%). NVYT có thái độ đạt chiếm tỷ lệ khá cao (77,9%). NVYT có thái độ tích cực về ảnh hưởng đến sức khoẻ của CTRYT đạt tỷ lệ cao nhất (99,3%), thấp nhất là thu gom theo biểu tượng của loại chất thải (77,2%). NVYT thực hành đạt thấp (66,9%), thấp nhất ở nội dung “Các vỏ chai, lọ thuốc thủy tinh thải bỏ phân loại vào túi/thùng màu đen”, “Hoá chất dùng trong xét nghiệm hoá sinh, vi sinh” (55,2%; 68,4%).
|