Nghiên cứu về hành vi tìm kiếm chăm sóc sức khỏe của người bệnh đang quản lý tại Bệnh viện Thận Hà Nội năm 2023 được thực hiện nhằm (1) Mô tả hành vi tìm kiếm chăm sóc sức khỏe của người bệnh thận mạn tính đang quản lý tại khoa khám bệnh, Bệnh viện Thận Hà Nội năm 2023 và (2) Xác định một số rào cản tìm kiếm chăm sóc sức khỏe chuyên khoa của người bệnh. Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính. 430 người bệnh thận mạn tính tham gia phỏng vấn bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn, kết quả thu được: Tuổi trung bình 61,92 ± 12,99; 50,9% nam giới, 86,5% học vấn từ trung học phổ thông trở xuống, 40% sống ở thành thị, 68,8% giai đoạn 1-3, 74% người bệnh có bệnh kèm theo; 67,9% có hành vi tìm kiếm chăm sóc sức khỏe tại cơ sở y tế. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tìm kiếm chăm sóc sức khỏe của người bệnh gồm: tuổi, tình trạng hôn nhân, thời gian điều trị tại bệnh viện và giai đoạn bệnh. Nghiên cứu định tính được thực hiện bằng hình thức phỏng vấn sâu 10 người bệnh, 03 người nhà người bệnh và 02 bác sĩ. Một số rào cản người bệnh gặp phải trong tìm kiếm CSSK chuyên khoa bao gồm: (1) Yếu tố cá nhân: nhận thức, thái độ, tình trạng bệnh, niềm tin trong điều trị của người bệnh, (2) Yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường: chi phí điều trị, thông tin về các phương pháp chữa bệnh truyền thống, (3) Yếu tố về hệ thống y tế: sàng lọc, quản lý bệnh thận mạn tính tại tuyến y tế cơ sở, chuyển tuyến điều trị và (4) Yếu tố khác: dấu hiệu bệnh không điển hình, hoạt động truyền thông, giáo dục sức khỏe về bệnh thận và thông tin về Bệnh viện Thận Hà Nội trên các phương tiện thông tin còn hạn chế. Khuyến nghị đưa ra là cần cường công tác truyền thông, nâng cao hiểu biết của người dân về bệnh thận mạn tính, đẩy mạnh sự tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Bệnh viện Thận Hà Nội cần hỗ trợ các đơn vị màng lưới sàng lọc, phát hiện sớm bệnh thận trong cộng đồng, nâng cao công tác quản lý sớm người bệnh để hạn chế tối đa các biến chứng của bệnh và giảm chi phí điều trị.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả thực trạng mắc COVID-19 của hành khách nhập cảnh tại cửa khẩu cảng hàng không Quốc tế Nội Bài-Hà Nội, GĐ 2020-2022. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, hồi cứu số liệu từ tài liệu, hồ sơ trong các nguồn dữ liệu của hành khách nhập cảnh tại Sân bay Quốc tế Nội Bài trong 3 năm từ 1/1/2020 tới ngày 31/12/2022.
Kết quả: Có 249 chuyến bay có hành khách mắc COVID-19 trong tổng số 20.355 chuyến bay hạ cánh tại Nội Bài. Số chuyến bay đến Nội Bài nhiều nhất trong cả 3 GĐ ghi nhận từ Châu Á. Trong tổng số 3.021.767 hành khách nhập cảnh, xác định được 669 người bị nhiễm SARS-CoV2 và chủ yếu là người Việt Nam (chiếm 69,1% tổng số hành khách và 80,4% hành khách nhiễm SARS-CoV2 ). Tuy nhiên, tỷ lệ mắc COVID-19/100.000 hành khách khác nhau ở 3 GĐ và ở mỗi chuyến bay đến từ các khu vực khác nhau. GĐ 2 có nhiều làn sóng dịch với tỷ lệ mắc/100.000 hành khách cao nhất trong tháng 6/2021 (1.197 hành khách) và cao nhất ở người có quốc tịch châu Phi (1.471), châu Âu (299), Việt Nam (290) và châu Mỹ (144).
Nghiên cứu cắt ngang nhằm 2 mục tiêu: 1. Mô tả thực trạng tiếp xúc nghề nghiệp của nhân viên y tế tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương năm 2023; 2. Phân tích tình trạng sức khỏe, bệnh tật của nhân viên y tế và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương năm 2023. Tổng có 293 nhân viên y tế bộ tại bệnh viện Nhiệt đới Trung ương tham gia nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỉ lệ nhân viên y tế ở khoa lâm sàng thường xuyên tiếp xúc với máu và chất tiết của người bệnh cũng như có nguy cơ tổn thương do vật sắc nhọn cao hơn so với ở khoa cận lâm sàng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Ngoài ra, 15,0% nhân viên đã được chẩn đoán theo dõi bệnh nghề nghiệp. Điều này cho thấy cần phải cải thiện điều kiện lao động và luôn trang bị đầy đủ các phương tiện bảo vệ cá nhân cũng như đào tạo, kiểm tra, đánh giá cách sử dụng chúng, đặc biệt là tại các khu vực nguy cơ lây nhiễm bệnh cao.
1. Đặt vấn đề
Hà Nội là nơi lưu hành bệnh sốt xuất huyết trọng điểm của khu vực miền Bắc, trong nhiều năm ghi nhận nhiều đợt dịch lớn, có diễn biến phức tạp. Trước diễn biến phức tạp của dịch SXHD tại Hà Nội cùng với sự xuất hiện của dịch bệnh COVID-19 trong giai đoạn 2020-2022, đã tạo thành một thách thức lớn cho hệ thống y tế dự phòng, ảnh hưởng đến việc triển khai một số hoạt động phòng, chống dịch bệnh SXHD trong đó có giám sát ca bệnh và xử lý ổ dịch. Chính bởi vậy, câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là đặc điểm dịch tễ học SXHD tại Hà Nội giai đoạn 2018 – 2022 như thế nào? Có gì giống và khác với các giai đoạn trước? Đặc biệt là trong giai đoạn từ 2018 – 2022, đại dịch COVID-19 diễn ra có ảnh hưởng như thế nào đến diễn biến dịch COVID-19 không. Liệu rằng đại dịch COVID-19 có ảnh hưởng đến các hoạt động giám sát ca bệnh và xử lý ổ dịch sốt xuất huyết hay không? Chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue trước và trong đại dịch COVID-19 tại Hà Nội giai đoạn 2018-2022”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mô tả đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue tại Hà Nội giai đoạn 2018-2022.
- Mô tả kết quả hoạt động giám sát ca bệnh và xử lý ổ dịch sốt xuất huyết Dengue tại Hà Nội giai đoạn 2018-2022.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang mô tả 46.650 ca bệnh sốt xuất huyết và 4.708 ổ dịch được ghi nhận tại Hà Nội giai đoạn 2018-2022. Dữ liệu thu thập từ hệ thống giám sát bệnh sốt xuất huyết Dengue tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật thành phố Hà Nội.
4. Kết quả chính của đề tài
- Số mắc trung bình hàng năm là 9.330 trường hợp/năm với tỷ lệ mắc trung bình năm là 104 trường hợp/100.000 dân trong giai đoạn 2018-2022. Bệnh nhân phân bố tại 30 quận/huyện/thị xã, xu hướng chuyển dịch từ nội thành ra ngoại thành (năm 2018 nội thành 78,4%, ngoài thành 21,6%; năm 2022 nội thành 47%, ngoại thành 53%). Bệnh xuất hiện quanh năm, xu hướng tăng từ tháng 6 đến tháng 11 hàng năm, đạt đỉnh vào tháng 10, 11. Nhóm trên 15 tuổi chiếm tỷ lệ trên 80% và trên 60% số trường hợp mắc là lao động tự do, học sinh và sinh viên. Có sự lưu hành của cả 4 tuýp vi rút Dengue, trong đó chủ yếu là Dengue 1 (33,8-65,7%) và Dengue 2 (33,3-65,4%).
- Thời gian phát hiện ca bệnh trung bình là 6,2 ± 3,3 (ngày), trong đó giảm từ 6,2 ± 2,2 (ngày) năm 2018 xuống 5,4 ± 2,5 (ngày) năm 2020, sau đó tăng lên 6,7 ± 4,2 (ngày) năm 2022.
- Thời gian phát hiện ổ dịch trung bình là 5,63 ± 2,7 (ngày), trong đó giảm từ 5,32 ± 2,3 (ngày) năm 2018 xuống còn 4,98 ± 2,8 (ngày) trong năm 2021 và có xu hướng tăng lên 6,55 ± 3,3 (ngày) trong năm 2022.
- Tỷ lệ ổ dịch xử lý đạt chiếm 87,3% và chưa đạt chiếm 12,7%, trong đó, tỷ lệ ổ dịch được xử lý chưa đạt giảm từ 11% trong năm 2018 xuống 9,2% năm 2021 và tăng lên 17,9% năm 2022.
* Mục tiêu:
1. Mô tả các dấu hiệu trầm cảm của sản phụ sau sinh được khám chữa bệnh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội trong giai đoạn dịch COVID-19 năm 2022.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến các dấu hiệu trầm cảm của sản phụ sau sinh được khám chữa bệnh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội trong giai đoạn dịch COVID-19 năm 2022.
* Đối tượng: Các sản phụ sau sinh được khám chữa bệnh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, với các tiêu chuẩn lựa chọn:
- Sản phụ sau sinh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, có cuộc đẻ trong thời gian từ tháng 01/2022 đến tháng 04/2022 và có lưu thông tin liên lạc tại bệnh viện.
- Độ tuổi từ 18 đến 45 tuổi.
- Sản phụ trong tình trạng tỉnh táo, có khả năng giao tiếp và hoàn thành bảng hỏi.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, cỡ mẫu thu thập thực tế 223 đối tượng, phương pháp chọn mẫu thuận tiện.
* Kết quả chính:
- Trong tổng số 223 sản phụ tham gia nghiên cứu, tỷ lệ sản phụ có dấu hiệu trầm cảm sau sinh nói chung chiêm 36,3% (điểm EPDS từ 9 điểm trở lên).
- Các dấu hiệu trầm cảm đặc trưng và phổ biến của sản phụ sau sinh lần lượt bao gồm: đôi khi không thể xử lý tốt mọi việc như thường ngày (49,3%), cảm thất buồn phiền đến nỗi phát khóc lên dù không thường xuyên (36,3%), thỉnh thoảng cảm thấy bồn chồn lo lắng vô cớ (36,3%) và cảm thấy những thú vui từ sự việc giảm hơn so với trước (35,0%).
- Nghiên cứu chỉ ra một số yếu tố liên quan đến dấu hiệu trầm cảm của sản phụ sau sinh bao gồm: sản phụ trong nhóm tuổi dưới 30 tuổi có nguy cơ có dấu hiệu trầm cảm sau sinh cao hơn so với nhóm tuổi từ 30 tuổi trở lên; những sản phụ sinh từ lần 2 trở lên cũng có xu hướng có dấu hiệu trầm cảm sau sinh cao hơn so với những sản phụ sinh lần đầu; nỗi sợ COVID-19 ở sản phụ sau sinh tăng cao, chất lượng giấc ngủ và hỗ trợ xã hội kém thì sản phụ có khả năng tăng nguy cơ có dấu hiệu trầm cảm sau sinh.
Mục tiêu:
1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của học sinh tại trường trung học cơ sở Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội Năm 2022.
2. Mô tả kiến thức, thực hành dinh dưỡng của học sinh tại trường trung học cơ sở Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội Năm 2022.
Đối tượng:
Học sinh từ 10 - 14 tuổi đang theo học tại trường THCS Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội năm 2022.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 300 học sinh 10-14 tuổi, trường trung học cơ sở (THCS) Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội năm 2022 sử dụng phương pháp nhân trắc đánh giá TTDD theo chỉ số Z-score BMI theo tuổi và chiều cao theo tuổi (HAZ) và bộ câu hỏi phỏng vấn có sẵn
Kết quả: Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể gầy còm (BAZ <-2) là 9,3% trong đó nam (9,9%) và nữ (8,7%); có xu hướng tăng theo tuổi: ở nhóm 11 tuổi là 4,5%, nhóm 12 tuổi là 6,4%, nhóm 13 tuổi là 10,1% và nhóm 14 tuổi là 14,3%. Tỷ lệ SDD thấp còi chung là 5,7%, tỷ lệ thừa cân là 5,0%, béo phì là 0,7%. 84,0% học sinh có kiến thức đúng cho rằng bữa ăn cần có đủ 4 nhóm chất dinh dưỡng là tinh bột, chất béo, chất đạm, vitamin và chất khoáng. 81% học sinh cho rằng ăn nhiều chất béo là nguyên nhân dẫn đến béo phì. Chỉ có 25,7% học sinh cho rằng chất béo là chất dinh dưỡng cung cấp nhiều năng lượng nhất
Tình trạng dinh dưỡng và vi chất dinh dưỡng của phụ nữ mang thai có mối tương quan chặt chẽ với tình trạng dinh dưỡng của trẻ sơ sinh. Kiến thức, thực hành dinh dưỡng của phụ nữ mang thai có mối tương quan chặt chẽ với tình trạng dinh dưỡng của thai phụ trong thời kỳ có thai.
Mục tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm về kiến thức, thực hành dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của phụ nữ có thai 24 và 36 tuần đến khám tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội.
2.Mô tả một số đặc điểm về tình trạng dinh dưỡng của phụ nữ có thai 24 và 36 tuần đến khám tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội
Phương pháp: Điều tra mô tả cắt ngang, phỏng vấn 339 thai phụ đến khám tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội.
Kết quả: Tuổi trung bình của các thai phụ là 28,8 ± 4,8, trong đó độ tuổi từ 25-35 tuổi chiếm khoảng 65,0% (n=220). Trước khi mang thai, tỷ lệ thừa cân (BMI ≥23) là 1,8% (n=6), tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn (BMI<18,5) là 11,8% (n= 40). Tỷ lệ thai phụ đến khám mang thai ở lần thứ hai cao hơn những thai phụ mang thai ở lần thứ nhất, lần lượt là 50,4 % (n= 171) và 47,8% (n=162). Tỷ lệ thai phụ thiếu năng lượng trường diễn trước mang thai tăng cân nặng đạt chuẩn là 22,5% (n= 9), số thai phụ có BMI bình thường tăng cân đạt chuẩn là 27,6% (n=16). Có 84,3% phụ nữ có thai biết nên đi khám ít nhất 3 lần trong suốt thời kỳ mang thai, 72,9% phụ nữ có thai thực hành đúng. Số thai phụ hiểu biết về mức tăng cân đúng trong thời gian có thai là 71,2%. Có 87% trả lời đúng về chế độ ăn tăng lên khi có thai, 78,8% thực hành chế độ ăn tăng lên. Tỷ lệ hiểu biết đúng về chế độ ăn hợp lý (đủ về số lượng và đủ 4 nhóm thực phẩm) là 46%. Số đối tượng cho rằng cần ăn kiêng khi có thai là 34,8%, trên thực tế chỉ có 19% thực hiện ăn kiêng khi có thai. Có 37% bổ sung viên sắt trước khi có thai, 43,7% bổ sung viên sắt trong 3 tháng đầu. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa tình trạng nghén/không nghén và tăng cân/không tăng cân, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số mức tăng cân giữa 2 nhóm này (p=0,01). Tỷ lệ bổ sung sắt đúng /thai phụ có trình độ học vấn trên cấp 3 cao hơn so với nhóm còn lại. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p=0,02<0,05. Với OR= 2,3, khoảng tin cậy 95% CI (1,3- 4)
|