Mục tiêu 1: Mô tả kết quả điều trị methadone của người bệnh sau 12 tháng tham gia chương trình thí điểm cấp thuốc methadone nhiều ngày tại 3 tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Hải Phòng năm 2021 – 2022
Mục tiêu 2: Mô tả một số thuận lợi và khó khăn đối với cán bộ y tế tham gia triển khai chương trình thí điểm cấp thuốc methadone nhiều ngày tại ba tỉnh nói trên.
Thiết kế nghiên cứu: cắt ngang trích lục bệnh án và thu thập dữ liệu định tính
Đối tượng mục tiêu 1: Người bệnh bắt đầu tham gia chương trình cấp thuốc methadone nhiều ngày từ tháng 4 đến tháng 9/2021 và được trích lục bệnh án đến tháng 9/2022. Đối tượng mục tiêu 2: 1. Lãnh đạo CDC tỉnh hoặc cán bộ quản lý chương trình methdone tỉnh. 2. Cán bộ cơ sở điều trị methadone chính. 3. Cán bộ cơ sở cấp thuốc methadone. 4. Cán bộ hỗ trợ giám sát (cán bộ trạm y tế xã/phường hoặc thôn bản)
Kết quả chính:
1. Kết quả điều trị methadone của người bệnh sau 12 tháng tham gia chương trình thí điểm cấp thuốc methadone nhiều ngày.
- Người bệnh điều trị cấp thuốc methadone nhiều ngày có đặc điểm nhân khẩu xã hội tương đồng với người bệnh điều trị methadone nói chung. Chủ yếu là nam, độ tuổi trung niên, đa số là dân tộc Kinh, học vấn chủ yếu dưới trung học cơ sở, đa số đã kết hôn và đa số không có thu nhập ổn định.
- Sau 12 tháng theo dõi, 94,9% duy trì trong điều trị methadone, 88,9% duy trì trong chương trình cấp thuốc nhiều ngày. Người bệnh ở đồng bằng và duy trì liên tục trong cấp thuốc nhiều ngày có tỷ lệ duy trì điều trị cao hơn.
- Người bệnh tham gia cấp thuốc nhiều ngày tuân thủ điều trị tương đối tốt. Tỷ lệ bỏ liều trong tháng dao động dưới 3% trong 12 tháng theo dõi. Lí do bỏ liều chủ yếu là bận công việc gia đình.
- Sử dụng chất dạng thuốc phiện duy trì ở mức thấp sau khi người bệnh tham gia cấp thuốc nhiều ngày. Mặc dù tỷ lệ người bệnh được xét nghiệm nước tiểu hàng tháng dao động từ 40-70%, tỷ lệ xét nghiệm nước tiểu dương tính dao động dưới 2% trong 12 tháng theo dõi.
2. Một số thuận lợi và khó khăn đối với cán bộ y tế tham gia triển khai chương trình thí điểm cấp thuốc methadone nhiều ngày
Thuận lợi:
Cán bộ y tế báo cáo lợi ích ban đầu của chương trình cấp thuốc nhiều ngày là giảm số lượng người bệnh tập trung quá đông đến cơ sở điều trị hàng ngày. Ngoài ra chương trình cũng nhận được sự phối hợp từ các ban ngành và đồng đẳng viên tại cộng đồng ở một số địa phương, và sự ủng hộ và hợp tác của người bệnh và gia đình.
Khó khăn:
Còn nhiều thách thức trong quá trình triển khai liên quan đến nguồn lực và khối lượng công việc của cán bộ y tế, bao gồm:
- Cán bộ điều trị methadone, đặc biệt ở các cơ sở y tế tuyến xã ở khu vực miền núi, thường kiêm nhiệm nhiều việc. Do đó, việc sắp xếp cán bộ tham gia tập huấn và duy trì hoạt động ổn định gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong các đợt dịch COVID-19 trong thời gian triển khai.
- Phần mềm quản lý chương trình methadone chưa tích hợp thông tin cấp thuốc nhiều ngày, do đó nhiều quy trình quản lý phải làm thủ công, mất nhiều thời gian và công sức của cán bộ.
- Thách thức trong triển khai giám sát tại nhà, đặc biệt ở các tỉnh miền núi do khoảng cách tới nhà người bệnh xa, địa hình đi lại khó khăn, và chưa được hỗ trợ kinh phí phù hợp. Giám sát qua điện thoại khó khăn với một số người bệnh ở miền núi.
- Thiếu nguồn xét nghiệm nước tiểu ổn định để đánh giá kết quả điều trị và hỗ trợ người bệnh tốt hơn trong quá trình điều trị.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ về tiêm vắc xin viêm gan B sơ sinh của cán bộ trạm y tế thuộc huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên, 2022.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về tiêm vắc xin viêm gan B sơ sinh của đối tượng nghiên cứu trên
Đối tượng nghiên cứu: Các cán bộ y tế trực tiếp tham gia hoạt động tiêm chủng tại trạm y tế của tất cả 12 xã miền núi huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên.
Phương pháp nghiên cứu:
1. Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
2. Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu
- Cỡ mẫu: Toàn bộ các cán bộ y tế trực tiếp tham gia hoạt động tiêm chủng tại trạm y tế 12 xã thuộc huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên.
- Phương pháp chọn mẫu: Chọn toàn bộ các cán bộ y tế trực tiếp tham gia hoạt động tiêm chủng tại 12 trạm y tế xã, huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên.
3. Biến số nghiên cứu
Nhóm biến số về thông tin chung của đối tượng nghiên cứu:
Thông tin về cán bộ y tế: Giới tính, tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, thâm niên công tác trong lĩnh vực tiêm chủng.
Biến số mục tiêu 1:
- Nhóm biến số về kiến thức của cán bộ y tế về bệnh viêm gan B:
Nguyên nhân gây bệnh VGB, đường lây truyền, khả năng điều trị, hậu quả của bệnh VGB, ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, cách dự phòng.
- Nhóm biến số về kiến thức của cán bộ y tế về tiêm vắc xin VGBSS:
Lợi ích của tiêm vắc xin VGBSS, thời gian tiêm, các trường hợp hoãn tiêm, phản ứng sau tiêm có thể gặp phải.
Biến số mục tiêu 2:
Nhóm biến số về thái độ của cán bộ y tế đối với tiêm vắc xin VGBSS: Thái độ khi thực hiện tiêm vắc xin VGBSS, thái độ với tiêm chủng tại trạm, tại nhà, đánh giá về mức độ cần thiết của tiêm chủng, mức độ an toàn của tiêm chủng, mức độ hiệu quả của tiêm chủng và sự đồng thuận đối với chương trình tiêm vắc xin VGBSS.
Chi tiết biến số được trình bày tại phụ lục 1.
Chi tiết bộ công cụ được trình bày tại phụ lục 2.
Chi tiết thang điểm đánh giá kiến thức của cán bộ y tế về bệnh VGB và
vắc xin VGBSS được trình bày tại phụ lục 3.
4. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu
- Công cụ thu thập số liệu: Sử dụng bộ câu hỏi đã thiết kế sẵn (phụ lục 2). Bộ câu hỏi được thử nghiệm trên 10 cán bộ y tế xã trực tiếp tham gia hoạt động tiêm chủng tại huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên trước khi điều tra chính thức.
- Có 3 điều tra viên được tập huấn nghiên cứu này bao gồm: Mục tiêu, phương pháp thu thập số liệu, nội dung bộ câu hỏi phỏng vấn, kế hoạch thu thập số liệu, danh sách đối tượng được chọn cho nghiên cứu và cách ghi chép số liệu thu thập.
- Giám sát viên là cán bộ khoa Dịch tễ- Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương đã có kinh nghiệm tham gia các nghiên cứu định lượng và được tập huấn về nghiên cứu này, bao gồm: Mục tiêu, phương pháp nghiên cứu, bộ câu hỏi phỏng vấn, kế hoạch thu thập số liệu, danh sách đối tượng được chọn cho nghiên cứu, danh sách điều tra viên, cách giám sát và thu thập số liệu tại thực địa. Giám sát viên rà soát chất lượng phiếu và kiểm tra ngẫu nhiên 10% đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập số liệu: Phỏng vấn trực tiếp tại trạm y tế về kiến thức của cán bộ y tế về bệnh VGB và về tiêm vắc xin VGBSS, phỏng vấn gián tiếp thông qua phát phiếu phỏng vấn tự điền về thái độ của cán bộ y tế về tiêm vắc xin VGBSS.
5. Sai số và biện pháp hạn chế sai số
5.1. Sai số
Nghiên cứu có thể gặp phải sai số hệ thống. Cụ thể là sai số nhớ lại, sai số trong quá trình nhập, quản lý và phân tích số liệu. Sai số nhớ lại về kiến thức của cán bộ y tế trong quá trình phỏng vấn.
5.2. Biện pháp hạn chế sai số
Để khống chế sai số trong nghiên cứu, đặc biệt là sai số nhớ lại, sai số nhập liệu, quản lý và phân tích số liệu, cũng như sai sót trong quá trình phỏng vấn cán bộ y tế, bạn có thể thực hiện những biện pháp sau:
- Tập huấn điều tra viên (ĐTV) về các quy trình và phương pháp làm việc chính xác để giảm thiểu sai số nhớ lại.
- Xây dựng bộ câu hỏi nghiên cứu chi tiết và rõ ràng, đồng thời cung cấp hướng dẫn chi tiết cho ĐTV để giảm thiểu sai sót trong quá trình nhập liệu.
- Sử dụng phần mềm và quản lý dữ liệu để tự động
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm phân tích thực hành phòng chống COVID-19 trong và ngoài cơ sở y tế của cán bộ y tế tại Bắc Ninh và Nghệ An năm 2022.
Đối tượng nghiên cứu: cán bộ y tế có tham gia các công việc tiếp xúc với người mắc hoặc nghi mắc COVID-19 công tác tại các khoa/phòng/đơn vị điều trị bệnh nhân COVID-19 tại một số cơ sở y tế tỉnh Bắc Ninh và Nghệ An.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang sử dụng phương pháp định lượng bằng bộ câu hỏi tự điền trên 335 cán bộ y tế tại một số cơ sở y tế công lập ở Bắc Ninh và Nghệ An năm 2022, mô tả thực hành phòng chống COVID-19 ở trong và ngoài cơ sở y tế thông qua tỉ lệ sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân, vệ sinh tay và tiêm phòng COVID-19.
Kết quả: Tỉ lệ cán bộ y tế sử dụng găng tay dùng một lần, khẩu trang y tế, tấm chắn mặt, áo choàng, khẩu trang N95 và vệ sinh tay trước và sau khi tiếp xúc lần lượt là 56,6%, 80,4%, 36,7%, 29,8%, 42,2% và 81,2%. Cán bộ y tế tại Bắc Ninh có tỉ lệ sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân cao hơn và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở tỉ lệ sử dụng tấm chắn mặt: 53,9% tại Bắc Ninh so với 23,2% tại Nghệ An; áo choàng: 42,3% tại Bắc Ninh so với 18,1% tại Nghệ An; và khẩu trang N95: 56,2% tại Bắc Ninh so với 31,2% tại Nghệ An. Tỉ lệ cán bộ y tế tiêm 3 mũi vắc xin trở lên là 95,5%.
Nghiên cứu được tiến hành nhằm mô tả một số bộ công cụ đánh giá hội chứng COVID-19 kéo dài và mô tả thực trạng mắc hội chứng COVID-19 kéo dài đánh giá bằng công cụ SBQTM-LC trên cán bộ y tế tại Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh và Bệnh viện Hữu Nghị Đa khoa Nghệ An năm 2021-2022. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 04 công cụ đánh giá thực trạng hội chứng COVID-19 kéo dài (bao gồm PCFS, C19-YRS/C19-YRSm, ST & IT và SBQTM-LC) được đề cập trong 40 bài báo. Trong đó, SBQTM-LC là thang đo được phát triển dựa trên phương pháp đo lường tâm lý hiện đại Rasch, cung cấp đánh giá toàn diện về mặt triệu chứng, giúp đo lường một các cụ thể và chính xác sự xuất hiện cũng như mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, rối loạn giấc ngủ, suy giảm trí nhớ và sự tập trung, mệt mỏi là các tình trạng thường gặp nhất trong nhóm CBYT tham gia nghiên cứu. Tuy nhiên, các triệu chứng chủ yếu xuất hiện ở mức độ nhẹ.
Có một tỷ lệ đáng kể (1,3 - 34,7%) CBYT trải qua các tình trạng rối loạn tâm lý khác nhau. Các triệu chứng/tình trạng gây ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động thường ngày và chất lượng cuộc sổng của CBYT với 5,1 - 21,5% CBYT gặp phải tình trạng giới hạn các hoạt động thường ngày ở mức rất ít, một chút hoặc nghiêm trọng
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang tại các bệnh viện tư nhân tại Việt Nam với cỡ mẫu 29.005 nhân viên y tế nhằm mô tả mức độ hài lòng và một số yếu tố liên quan của nhân viên y tế đang làm việc tại các cơ sở y tế (CSYT) tư nhân trên toàn quốc. Kết quả nghiên cứu cho thấy nữ giới chiếm chủ yếu (69,35%), tuổi trung bình 32,82 ± 9,57 tuổi. Điều dưỡng, hộ sinh chiếm tỷ lệ cao nhất với 44,35%. Sự hài lòng chung về bệnh viện và về lãnh đạo, đồng nghiệp có điểm trung bình cao nhất, lần lượt 4,25 và 4,23 điểm. Sự hài lòng về thu nhập thấp nhất với 4,11 điểm. Một số yếu tố liên quan đến sự hài lòng gồm nữ giới có mức độ hài lòng với công việc thấp hơn nam giới; các nhà quản lý, lãnh đạo bệnh viện có hài lòng cao hơn so với những vị trí công việc khác; nhân viên làm trong khối hành chính có sự hài lòng cao hơn so với các khoa khác; người có kiêm nhiệm từ hai công việc trở lên và số buổi trực trong một tháng nhiều hơn thì mức độ hài lòng càng giảm. Cần có các nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu lý do về mức độ hài lòng khác nhau và cải thiện chất lượng khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế tư nhân.
Mục tiêu: Tổng quan thưc trạng mắc trầm cảm ở cán bộ y tế và một số yếu tố ảnh hưởng đến trầm cảm ở cán bộ y tế. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu tổng quan. Kết quả: 27 bài báo được chọn đưa vào nghiên cứu phân tích tổng hợp. Tỷ lệ trầm cảm ở cán bộ y tế cao nhất là 77,6% và thấp nhất là 10,9%. Các yếu tố ảnh hưởng chính làm tăng tỷ lệ trầm cảm như: hút thuốc lá, số giờ làm việc trên 70 giờ/tuần, giới tính nữ, số giờ ngủ ít hơn 6-7h/ngày, làm việc tại các khoa đặc thù… Các yếu tố ảnh hưởng giúp làm giảm tỷ lệ trầm cảm: hoạt động thể thao, tự chủ trong công việc và quan tâm đến nghề. Kết luận: Tình trạng trầm cảm ở nhân viên y tế hiện nay trên thế giới và Việt Nam đều đáng báo động, Các đơn vị ngành y tế cần quan tâm hơn đến thực trạng trầm cảm của nhân viên y tế để thiết lập hệ thống giảm áp lực công việc, tạo môi trường làm việc thuận lợi, hỗ trợ, cố vấn chuyên môn giúp phục hồi sức khỏe tinh thần cho họ.
Từ khoá: Cán bộ y tế, trầm cảm, yếu tố ảnh hưởng, 2010-2019
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí Dược học
Tạp chí Y học dự phòng
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí y học dự phòng
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
Tạp chí y học dự phòng
This study aimed to describe mental health service utilization and examine associated factors among students in Vietnam. Data were collected at eight universities in Hanoi, Vietnam, in 2018 using an administered questionnaire. The total number of participants was 9,120 (95.1% response rate). Among stu dents participating in our survey, 12.5% (95% CI: 10.9–14.1) with depression and/or anxiety symptoms used mental health service in the last 12 months. In the multivariable regression models, significant factors associated with mental health ser vice utilization were marital status, types of housemate, men tal health problems, physical activity, smoking status, and alcohol drinking. Our study made recommendations to stake holders for improving mental health services utilization among students in Vietnam. These findings had important implica tions for future research on factors associated with mental health service utilization among university students.
|