1. Mục tiêu nghiên cứu:
1.1 Mô tả kiến thức, thái độ của giáo viên tiểu học về tật khúc xạ của học sinh ở một số trường tiểu học tại Hà Nội năm 2022.
1.2 Phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ của giáo viên tiểu học về tật khúc xạ của học sinh các trường được nghiên cứu.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
2.1. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên 8 trường tiểu học thuộc thành phố Hà Nội bao gồm: Trường Tiểu học Ngọc Hà, Trường Tiểu học Thanh Xuân Nam, Trường Tiểu học Tô Vĩnh Diện, Trường Tiểu học Nam Thành Công, Trường Tiểu học Times School, Trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh, Trường Tiểu học Ngô Sĩ Kiện, Trường Tiểu học Ngũ Hiệp.
2.2. Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 4/2022 đến tháng 11/2023.
Trong đó, thời gian thu thập số liệu: Từ tháng 9/2022 đến tháng 12/2022.
2.3 Đối tượng nghiên cứu
- Tiêu chuẩn lựa chọn
Giáo viên dạy tiểu học tại các trường đã được chọn đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ
Các giáo viên vắng mặt tại thời điểm nghiên cứu.
2.4 Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
- Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Cỡ mẫu
Áp dụng công thức cho ước tính một tỷ lệ trong quần thể:
n = (Z_(1-α/2)^2 . p(1-p))/d^2
Trong đó:
n: Cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu cắt ngang.
Z_(1-α/2)^2: Hệ số tin cậy =1,96 với α=0,05
p: Tỷ lệ giáo viên có kiến thức chung tốt về tật khúc xạ. Chọn p = 66,3% theo nghiên cứu của Trịnh Quang Trí và cộng sự tại 5 tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long năm 2022 khảo sát kiến thức, thực hành phòng chống tật khúc xạ học đường ở giáo viên tiểu học tại 5 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long năm 2018
d: Mức độ sai số mong muốn: chấp nhận d=0,05.
Vậy cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu mô tả cắt ngang là 343 giáo viên, trên thực tế đề phòng mất mẫu chúng tôi chọn số giáo viên nghiên cứu là 378 giáo viên.
- Phương pháp chọn mẫu
Do điều kiện hạn chế về thời gian, nhân lực và kinh phí nên đề tài của chúng tôi chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện, chọn tất cả các giáo viên tiểu học trong trường đáp ứng tiểu chuẩn lựa chọn và loại trừ của đề tài.
2.5 Tiêu chuẩn đánh giá và cho điểm kiến thức, thái độ
Bộ câu hỏi được tham khảo từ một nghiên cứu tương tự tại Ethiopia đã được thực hiện trước đó và chỉnh sửa cho phù hợp với nghiên cứu và văn hóa tại Việt Nam.14 Cách tính điểm phân loại kiến thức, thái độ cũng được tham khảo nghiên cứu tại Ethiopia, nghiên cứu của chúng tôi đánh giá kiến thức, thái độ như sau:
- Đánh giá kiến thức: Đối với các câu hỏi về kiến thức, mỗi ý trả lời đúng được tính với số điểm nhất định, trả lời được bao nhiêu ý đúng thì được số điểm tương ứng. Kiến thức của giáo viên tiểu học về tật khúc xạ của học sinh gồm 13 câu (15-27). Mỗi câu có thể có 1 hoặc nhiều ý đúng (Phụ lục 3). Tổng số ý đúng của phần câu hỏi về kiến thức là 27 ý đúng, tương đương với 27 điểm. Trong nghiên cứu của chúng tôi quy ước kiến thức tốt là khi trả lời được ≥70% số ý đúng (≥70% số điểm).
- Đánh giá thái độ: Thái độ của giáo viên tiểu học về tật khúc xạ của học sinh gồm 5 câu (28-32). Mỗi câu có năm đáp án lựa chọn để giáo viên có thể lựa chọn tương ứng với thái độ của bản thân với mục đích phát hiện và chăm sóc tật khúc xạ của học sinh (Phụ lục 4). Tổng số điểm tối đa của phần câu hỏi về thái độ là 10 điểm. Trong nghiên cứu này chúng tôi quy ước thái độ tích cực là có tổng số điểm thái độ ≥5 điểm, tương đương với các lựa chọn thể hiện mức độ đồng ý (1 điểm) hoặc rất đồng ý (2 điểm).
2.6 Xử lý và phân tích số liệu
Sau khi thu thập số liệu, các phiếu điều tra được kiểm tra lại để đảm bảo thông tin đầy đủ và phù hợp.
- Số liệu được mã hóa, nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1.
- Xử lý phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 22.0 và Microsoft Excel.
- Với mục tiêu 1: Tính tỷ lệ phần trăm và số trung bình của các biến số.
- Với mục tiêu 2: Tính tỷ suất chênh (OR), khoảng tin cậy (95%CI) để tìm mối liên quan giữa một số yếu tố với kiến thức, thái độ của giáo viên tiểu học về tật khúc xạ của học sinh. Nhận định có mối liên
Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ của điều dưỡng về phòng ngừa nhiễm khuẩn tiết niệu liên quan đến ống thông tiểu và một số yếu tố liên quan tại bệnh viện Hữu Nghị năm 2023.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành tại 19 khoa lâm sàng bệnh viện Hữu Nghị. Có 249 trong tổng số 270 điều dưỡng của bệnh viện tham gia nghiên cứu. Số liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi được xây dựng sẵn.
Kết quả: Nghiên cứu cho thấy 68,2% điều dưỡng có kiến thức khá trở lên về phòng ngừa nhiễm khuẩn tiết niệu liên quan đến ống thông tiểu. Trong đó các kiến thức về chỉ định đặt ống thông tiểu, tác nhân gây nhiễm khuẩn tiết niệu, kỹ thuật đặt và chăm sóc ống thông tiểu, vệ sinh tay điều dưỡng trả lời khá tốt tuy nhiên phần kiến thức về thời gian lưu ống tiểu còn khá hạn chế. Về thái độ, các điều dưỡng nhìn chung được đánh giá là có thái độ tích cực về phòng ngừa nhiễm khuẩn tiết niệu liên quan đến ống thông tiểu, tỷ lệ điều dưỡng có thái độ tích cực là 67,9%. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng điều dưỡng là nữ giới có kiến thức về phòng ngừa nhiễm khuẩn tiết niệu liên quan ống thông tiểu tốt hơn 2,06 lần so với nam giới (OR:2,06, 95%CI:1,01-4.21, p<0,05)
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức tốt về phòng ngừa nhiễm khuẩn tiết niệu liên quan đến ống thông tiểu còn khá hạn chế. Do đó nên tổ chức các lớp đào tạo thường xuyên về phòng ngừa nhiễm khuẩn tiết niệu liên quan đến ống thông tiểu.
1. Mục tiêu:
- Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh tay thường quy và một số yếu tố ảnh hưởng của nhân viên y tế bệnh viện Châm cứu Trung ương năm 2022.
- Mô tả kiến thức, thái độ về phòng ngừa xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn và một số yếu tố ảnh hưởng của nhân viên y tế tại bệnh viện Châm cứu Trung ương năm 2022.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn tự điền và phiếu giám sát để thu thập số liệu nghiên cứu. Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 5/2021 đến tháng 12/2023.
3. Kết quả: Trong tổng số 130 đối tượng tham gia nghiên cứu, có 77,7% đối tượng có kiến thức đạt về VSTTQ, 92,3% ĐTNC có thái độ tích cực và tỷ lệ tuân thủ VSTTQ là 62%. 76,2% đối tượng có kiến thức đúng và 93,8% đối tượng tham gia nghiên cứu có thái độ tích cực về phòng ngừa, xử trí tổn thương do vật sắc nhọn. Trong 1 năm qua có 46,2% đối tượng tham gia nghiên cứu đã bị tổn thương do vật sắc nhọn, trong đó 60% ĐTNC có thực hành đúng xử trí sau tổn thương. Nghề nghiệp ảnh hưởng đến kiến thức về VSTTQ của nhân viên y tế. Một số yếu tố như vị trí công tác, thâm niên công tác và giới tính có ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ về phòng ngừa xử trí phơi nhiễm với VSN.
4. Kết luận: Đa số nhân viên y tế tại bệnh viện Châm cứu Trung ương có kiến thức đạt và thái độ tích cực về VSTTQ và phòng ngừa, xử trí tổn thương do vật sắc nhọn. Tuy nhiên tỷ lệ tuân thủ thực hành VSTTQ chưa cao (62%). Và khi xảy ra tổn thương do vật sắc nhọn vẫn còn NVYT có thực hành xử trí tổn thương chưa đúng để bảo vệ sức khỏe bản thân khỏi những nguy cơ gây bệnh.
Đặt vấn đề: Thái độ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết và góp phần dự phòng sa sút trí tuệ (SSTT). Nghiên cứu này được triển khai với mục tiêu mô tả thái độ của người dân về sa sút trí tuệ tại một số tỉnh của Việt Nam và một số yếu tố liên quan năm 2020.
Đối tượng: Người dân trong cộng đồng
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 967 đối tượng tại 8 tỉnh thành đại diện cho 8 vùng sinh thái tại Việt Nam. Sử dụng bộ câu hỏi có cấu trúc và thang đo Likert để đánh giá Thái độ về Sa sút trí tuệ.
Kết quả: Điểm trung bình của tổng thái độ tích cực là 26,55 ± 3,59 (trên 35 điểm) và điểm trung bình của thái độ tiêu cực là 23,83 ± 3,66 (trên 40 điểm). Các yếu tố như tuổi và thu nhập có mối liên quan với thái độ tích cực. Tuổi có liên quan đến Thái độ tiêu cực.
Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành và phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về dự phòng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe của nhân viên y tế tuyến cơ sở huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An năm 2022
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
Kết quả: Có 55,6% nhân viên y tế có kiến thức đạt về dự phòng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe. Trong đó, có 24,5% nhân viên y tế có kiến thức đúng về biểu hiện của biến đổi khí hậu, 22,1% nhân viên y tế có kiến thức đúng về nguyên nhân của biến đổi khí hậu. Có 51,4% nhân viên y tế có thái độ đạt trong việc dự phòng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe. Tỷ lệ nhân viên y tế thực hành về dự phòng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe thấp 34,4%. Nhóm nhân viên y tế không đạt về kiến thức có nguy cơ không đạt về thái độ cao hơn gấp 2,05 lần so với nhóm nhân viên y tế có kiến thức đạt (OR = 2,05, p = 0,001). Nhóm nhân viên y tế không đạt về thái độ có nguy cơ không đạt về thực hành cao hơn gấp 4,77 lần so với nhóm nhân viên y tế có thái độ đạt (OR = 4,77, p <0,001).
Nghiên cứu cắt ngang nhằm mô tả thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế (NVYT) về phân loại, thu gom, vận chuyển, lưu trữ chất thải rắn y tế (CTRYT) tại bệnh viện Y Dược cổ truyền Sơn La. 136 NVYT tham gia với bộ câu hỏi tự điền được thiết kế sẵn. Kết quả: 72,8% NVYT có kiến thức đạt về phân loại, thu gom, lưu giữ và vận chuyển CTRYT. NVYT có kiến thức đúng cao nhất về phân loại CTRYT (83,8%) và thu gom CTRYT (88,2%), một số nội dung NVYT có kiến thức đúng chưa cao như lưu giữ CTRYT (63,2%) và kiến thức chung về CTRYT (69,1%). NVYT có thái độ đạt chiếm tỷ lệ khá cao (77,9%). NVYT có thái độ tích cực về ảnh hưởng đến sức khoẻ của CTRYT đạt tỷ lệ cao nhất (99,3%), thấp nhất là thu gom theo biểu tượng của loại chất thải (77,2%). NVYT thực hành đạt thấp (66,9%), thấp nhất ở nội dung “Các vỏ chai, lọ thuốc thủy tinh thải bỏ phân loại vào túi/thùng màu đen”, “Hoá chất dùng trong xét nghiệm hoá sinh, vi sinh” (55,2%; 68,4%).
Tạp chí nghiên cứu Y học
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 314 sinh viên trường Đại học Y Hà Nội nhằm mô tả thái độ của sinh viên về học trực tuyến do dịch COVID-19 năm 2021. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Sinh viên có thái độ chung là tích cực về học trực tuyến khi có dịch COVID-19. Thái độ hành vi và thái độ nhận thức dễ sử dụng có mức độ đồng ý cao nhất (trung bình mục = 3,8 và 3,9) nhưng thái độ cảm xúc và thái độ hữu ích ở ngưỡng phân vân và đồng ý (trung bình mục = 3,3) trên 5 là rất đồng ý (cao nhất). Cụ thể: sinh viên hứng thú với giờ học lý thuyết trực tuyến; tự tin, thoải mái trao đổi với thầy/cô khi học trực tuyến, và có nhiều thời gian để chuẩn bị bài và dễ dàng truy cập bài giảng (trung bình = 3,5 đến 4,0). Ngược lại, học trực tuyến còn một số hạn chế là tập trung chú ý, tạo động lực, giao tiếp trao đổi với bạn bè và thích hơn học trên giảng đường (trung bình = 2,9 đến 3,2). Nhà trường có thể thử nghiệm kết hợp giữa giảng trực tuyến một số bài giảng lý thuyết và giảng thực hành trực tiếp, từ đó tiếp tục đánh giá để đưa ra phương pháp dạy học hiệu quả đối với sinh viên.
Tạp chí Y học cộng đồng
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến thái độ về an toàn người bệnh (ATNB) của nhân viên y tế (NVYT) tại BVĐK tỉnh Ninh Bình, năm 2021. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 343 NVYT được lựa chọn ngẫu nhiên, hiện đang làm việc trong BVĐK tỉnh Ninh Bình, từ tháng 11/2021 – 12/2021. Nghiên cứu sử dụng bộ thang đo SAQ phiên bản rút gọn năm 2006 của Đại học Texas được Việt hoá để đo lường thái độ ATNB. Nghiên cứ sử dụng OR, 95% CI để xác định mối liên quan giữa thái độ ATNB và một số yếu tố liên quan. Kết quả: NVYT có tỷ lệ và điểm trung bình về thái độ ATNB cao nhất ở mục mục “Sự hài lòng công việc” (75,8%, 4,0 ± 0,6) và điều kiện làm việc (62,97%, 3,8 ± 0,6). Các NVYT có trình độ chuyên môn là sau đại học có điểm thái độ ATNB cao hơn gấp 6,8 lần (95% CI: 1,8 - 25,6) so với các đối tượng có trình độ chuyên môn là Đại học. Ngoài ra, NVYT tuyển dụng hợp đồng có thái độ ATNB cao hơn gấp 3,6 lần (95% CI: 1,4 - 9,2) so với NVYT thuộc biên chế. Kết luận: Nghiên cứu đã chỉ ra Bệnh viện nên đào tạo liên tục để củng cố thái độ ATNB của NVYT, nhất là nhóm biên chế và có trình độ đại học
Tạp chí Y học Việt Nam
Nghiên cứu này nhằm mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về dinh dưỡng hợp lý của học sinh tiểu học. Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 1.116 học sinh tại 4 trường tiểu học của tỉnh An Giang và Thừa Thiên Huế. Sử dụng bảng hỏi để đo lường kiến thức, thái độ và thực hành về dinh dưỡng. Tỷ lệ học sinh hiểu biết tốt và khá về bữa ăn hợp lý là 40,8% và thực phẩm lành mạnh là 39,9%. Tỷ lệ học sinh đồng ý với nhận định bữa ăn cân bằng, đầy đủ, đa dạng có lợi cho sức khỏe là 84,5%. Có 9% học sinh ăn thức ăn nhanh >= 4 lần/tuần. Khả năng ăn thức ăn nhanh < 4 lần/tuần ở nhóm có hiểu biết tốt và khá về bữa ăn hợp lý gấp 3,43 lần so với nhóm hiểu biết kém (OR = 3,43;95%CI: 2,06 – 5,73, p = 0,001). Tỷ lệ học sinh hiểu biết về bữa ăn hợp lý và thực phẩm lành mạnh còn
hạn chế. Có mối liên quan giữa kiến thức, thái độ và
thực hành về dinh dưỡng hợp lý của học sinh. Cần cải
thiện kiến thức và nâng cao thực hành về dinh dưỡng
hợp lý cho học sinh thông qua các hoạt động ngoại
khóa tại trường học.
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến thái độ về an toàn người bệnh (ATNB) của nhân viên y tế (NVYT) tại BVĐK Tỉnh Ninh Bình, năm 2021.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 343 NVYT được lựa chọn ngẫu nhiên, hiện đang làm việc trong BVĐK tỉnh Ninh Bình, từ tháng 11/2021 – 12/2021. Nghiên cứu sử dụng bộ thang đo SAQ phiên bản rút gọn năm 2006 của Đại học Texas được Việt hoá để đo lường thái độ ATNB. Nghiên cứ sử dụng OR, 95% CI để xác định mối liên quan giữa thái độ ATNB và một số yếu tố liên quan.
Kết quả: NVYT có tỷ lệ và điểm trung bình về thái độ ATNB cao nhất ở mục mục “Sự hài long công việc” (75,8%, 4,0 ± 0,6) và điều kiện làm việc (62,97%, 3,8 ± 0,6). Các NVYT có trình độ chuyên môn là sau đại học có điểm thái độ ATNB cao hơn gấp 6,8 lần (95% CI: 1,8 - 25,6) so với các đối tượng có trình độ chuyên môn là Đại học. Ngoài ra, NVYT tuyển dụng hợp động có thái độ ATNB cao hơn gấp 3,6 lần (95% CI: 1,4 - 9,2) so với NVYT thuộc biên chế.
Kết luận: Nghiên cứu đã chỉ ra Bệnh viện nên đào tạo liên tục để củng cố thái độ ATNB của NVYT, nhất là nhóm biên chế và có trình độ đại học.
Mục tiêu: 1. Mô tả thái độ về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất ngành bác sĩ y khoa của Trường Đại Học Y Hà Nội năm học 2020 - 2021.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến thái độ về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất ngành bác sĩ y khoa của Trường Đại Học Y Hà Nội năm học 2020 – 2021.
Đối tượng : Nghiên cứu được thực hiện trên sinh viên năm thứ nhất hệ bác sĩ y khoa năm học 2020-2021 tại trường Đại học Y Hà Nội.
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả chính:
1. Thái độ về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất ngành bác sĩ y khoa Trường Đại Học Y Hà Nội năm học 2020 - 2021.
Sinh viên năm nhất của hệ bác sĩ đa khoa đại học Y Hà Nội có thái độ tích cực về học kỹ năng giao tiếp hơn là thái độ tiêu cực.
Thái độ tích cực về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm nhất là cao đạt 49,7 điểm/ 65 điểm. Điểm trung bình tiểu mục cao nhất về vai trò và tầm quan trọng của học kỹ năng giao tiếp như “Phát triển KNGT của tôi cũng quan trọng như phát triển kiến thức của tôi về y học”, “học KNGT rất quan trọng vì khả năng giao tiếp là một kỹ năng suốt đời”, “tôi nghĩ rằng học KNGT rất hữu ích cho tấm bằng y khoa của mình”, hay “học kỹ năng giao tiếp đã và sẽ giúp tôi tôn trọng bệnh nhân”. Điểm đánh giá thấp nhất về học kỹ năng giao tiếp vui và thú vị.
Thái độ tiêu cực về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm nhất là thấp, đạt 31,8 điểm trên 65 điểm. Điểm trung bình tiểu mục đồng ý cao nhất là“Việc giảng dạy KNGT sẽ mang hình ảnh tốt đẹp hơn nếu nó giống một môn khoa học hơn”. Điểm trung bình tiểu mục không đồng ý nhất là “Tôi không hiểu học KNGT để làm gì”; “Tôi không cần KNGT giỏi để trở thành bác sĩ”
2. Một số yếu tố liên quan đến thái độ về học kỹ năng giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất ngành bác sĩ y khoa Trường Đại Học Y Hà Nội năm học 2020 – 2021.
Yếu tố liên quan đến thái độ tích cực về học KNGT: bố là bác sĩ, phương pháp đóng vai phù hợp để dạy KNGT, nội dung giảng dạy KNGT hấp dẫn, và sinh viên có bố mẹ và người thân cho rằng học KNGT là cần thiết.
Yếu tố liên quan đến thái độ tiêu cực về học KNGT: phương pháp đóng vai không phù hợp để dạy KNGT, nội dung giảng dạy KNGT không hấp dẫn, và bản thân sinh viên không cho rằng KNGT là cần thiết.
Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu 1: Mô tả kiến thức, thái độ về kiểm soát nhiễm khuẩn cơ bản của sinh viên, học viên học tập tại bệnh viện Nhi Trung ương năm 2021 - 2022.
Mục tiêu 2: Mô tả một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về kiểm soát nhiễm khuẩn cơ bản của sinh viên, học viên học tập tại bệnh viện Nhi Trung ương năm 2021 - 2022.
Đối tượng: 412 sinh viên (sinh viên y khoa, sinh viên điều dưỡng), học viên (bác sĩ, điều dưỡng) đến thực hành tại bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 02/2022 đến tháng 03/2022
Phương pháp nghiên cứu: dịch tễ học mô tả cắt ngang, nhằm mục đích đánh giá kiến thức, thái độ về kiểm soát nhiễm khuẩn cơ bản và các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về kiểm soát nhiễm khuẩn cơ bản trên nhóm đối tượng học viên, sinh viên đến thực hành tại bệnh viện Nhi Trung ương.
Tóm tắt kết quả: Tỷ lệ học viên, sinh viên có kiến thức tốt về kiểm soát nhiễm khuẩn chưa cao, chỉ chiếm 46,6%. Nhóm đối tượng đã được đào tạo về kiểm soát nhiễm khuẩn có điểm trung bình kiến thức cao hơn nhóm chưa được đào tạo là 1,5 điểm và thời gian đào tạo trong vòng 6 tháng trở lại đây thì điểm trung bình cao hơn nhóm đã đào tạo trên 6 tháng khoảng 0,9 điểm. Học viên có kiến thức về kiểm soát nhiễm khuẩn tốt gấp 3 lần so với nhóm sinh viên. Trong nhóm học viên, đối tượng có kinh nghiệm làm việc dưới 5 năm lại có kiến thức về kiểm soát nhiễm khuẩn tốt hơn so với nhóm có kinh nghiệm làm việc trên 5 năm, gấp 1,87 lần (95% CI 1,24 - 2,82).
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí nghiên cứu Y học
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam
Khi mối đe dọa toàn cầu về COVID-19 tiếp tục xuất hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Sinh viên y khoa là đối tượng xung phong đi phòng chống dịch và là đối tượng có nguy cơ cao tiếp xúc và nhiễm SARS-CoV-2. Do vậy, việc trang bị kiến thức và có thái độ tích cực về COVID-19 của sinh viên Y khoa là cần thiết. Mục tiêu:
1. Mô tả kiến thức và thái độ về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID-19 của sinh viên trường Đại học Y Hà Nội năm 2020.
2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức và thái độ về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID-19 của sinh viên trường Đại học Y Hà Nội năm 2020.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 361 sinh viên trường Đại học Y Hà Nội được triển khai năm 2020. Kết quả và kết luận: 67,59% sinh viên có kiến thức tốt về COVID-19. Đa phần sinh viên có thái độ tích cực đối với dịch bệnh COVID-19 (chiếm 95,01%). Kiến thức của sinh viên Bác sĩ đa khoa tốt hơn sinh viên hệ cử nhân Y tế công cộng (OR=0,40; 95% CI=0,19 – 0,85). Các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức và thái độ của sinh viên về COVID-19 bao gồm chuyên ngành và người nhà làm trong lĩnh vực y tế.
Tạp chí Y học dự phòng
|